Tín ngưỡng dân gian trong phim “bao giờ cho đến tháng mười”

Một tác phẩm điện ảnh chỉ trường tồn cùng thời gian khi nó phản ánh được tinh thần của cả dân tộc. Nội dung những tác phẩm đó thường đề cập đến vấn đề mang tính khái quát về đời sống của con người trong một giai đoạn lịch sử. Thông qua đó người xem thấy được tâm tư, tình cảm, khát vọng của nhân dân, những phong tục tập quán và sinh hoạt văn hóa truyền thống của vùng miền được miêu tả và lưu giữ trong đó. Bộ phim Bao giờ cho đến tháng mười của đạo diễn Đặng Nhật Minh là một trong những tác phẩm như thế.

Hãng CNN (Mỹ) đánh giá bộ phim Bao giờ cho đến tháng mười của đạo diễn Đặng Nhật Minh là một trong mười tám bộ phim châu Á đáng xem nhất mọi thời đại. Giá trị nghệ thuật của bộ phim không chỉ là tính nhân văn sâu sắc, bản sắc văn hóa dân tộc đa dạng, mà còn bởi những giá trị về mặt tinh thần, phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian được thể hiện sâu sắc trong trường đoạn Duyên gặp lại chồng vào đêm rằm tháng bảy tại chợ âm phủ.

Cốt truyện phim Bao giờ cho đến tháng mười được đạo diễn Đặng Nhật Minh tóm tắt: “Mở đầu phim là cảnh chị Duyên về làng sau khi vào Nam thăm chồng về. Nhưng chồng chị đã không còn nữa. Anh đã hy sinh trong một trận chiến đấu ở biên giới Tây Nam. Vì nỗi đau quá bất ngờ, vì đường xa mệt nhọc nên khi qua đò chị đã bị ngất đi, rơi xuống sông. May có Khang, một giáo viên đi cùng đò đã nhảy xuống sông vớt được chị. Khang cũng vớt lên được tờ giấy báo tử của chồng Duyên nên anh trở thành người đầu tiên biết tin này. Nhưng Duyên lại muốn giấu kín tin dữ đó, chị không muốn bố chồng đang già yếu phải đau buồn. Chị đã nhờ Khang viết những lá thư giả để làm an lòng những người trong gia đình chồng, một tình tiết có thật trong đời sống mà tôi được nghe. Mối quan hệ thầm kín của hai người bắt đầu từ đó. Cảm động trước sự hy sinh chịu đựng và nỗi mất mát của Duyên, Khang đã đem lòng yêu mến cô, muốn được thay thế người đã mất, lo toan cho hạnh phúc cho cô và đứa con lên bảy tuổi. Anh viết thư bộc lộ những tình cảm đó với Duyên. Không may bức thư lọt vào tay bà chị dâu và câu chuyện vỡ lở khắp làng. Khang mang tiếng là người yêu phụ nữ có chồng là bộ đội đang chiến đấu ở xa. Anh bị điều đi dạy ở nơi khác. Còn Duyên vẫn âm thầm chịu đựng nỗi đau cho đến ngày ông bố chồng sắp hấp hối bắt cô phải đánh điện xin cho chồng về. Thấy Duyên chần chừ, đứa con trai lên bảy đã tự ý lên bưu điện huyện để đánh điện cho bố. Giữa đường nó xin đi nhờ một xe commanca chở bộ đội. Những người lính trên xe biết rõ sự tình bèn đánh xe quay về làng. Khi họ về đến làng, đứng bên giường của bố chồng Duyên thì cũng vừa lúc cụ trút hơi thở cuối cùng sau khi tin rằng con trai mình đã về. Mọi người trong làng mới biết rằng chồng Duyên đã hy sinh, họ không còn hiểu lầm Khang nữa, nhưng anh đã đi rồi. Bây giờ Duyên lại mong tin anh, mong anh trở lại… Ngày khai giảng, cô đưa con đến trường và hỏi thăm tin anh” (1).

Trong phim có hình ảnh Duyên diễn chèo trong vai một người vợ tiễn chồng ra trận. Cô đã không diễn hết được trích đoạn chèo này và chạy ra miếu thờ thành hoàng làng. Ở đây, cô được biết, nếu muốn gặp chồng thì đợi đến rằm tháng bảy ra chợ âm phủ. Tại chợ âm phủ, mặc dù gặp được chồng nhưng cô không thể cầm tay do bây giờ chồng cô đã là một vong hồn… Cảnh quay cuộc gặp gỡ này gây nhiều ấn tượng cho người xem phim. Vậy chợ âm phủ là gì, tại sao lại chỉ diễn ra vào rằm tháng bảy và nó đóng vai trò như thế nào trong bộ phim tiêu biểu của nền điện ảnh nước nhà?

Theo Bách khoa toàn thư, chợ âm phủ họp ở địa phận làng Ó, xã Võ Cường, thị xã Bắc Ninh. Tương truyền, ngày xưa đó là bãi chiến trận có rất nhiều người chết trong các cuộc giao tranh. Hơn nữa, chợ âm phủ chỉ họp duy nhất mỗi năm một lần vào đêm mùng 4 rạng mùng 5 tết Nguyên đán. Theo quan niệm của người dân trong vùng, chợ họp là cơ hội cho người chết và người sống được gặp nhau. Chợ bắt đầu họp vào lúc lên đèn tại bãi đất trống cạnh ngôi miếu linh thiêng trong vùng. Người đi chợ thường mang theo một con gà đen được chăm sóc cẩn thận trước đó để làm vật tế thần. Người đi chợ đều vui vẻ, thoải mái, họ quan niệm đó là dịp làm phúc, làm điều thiện với người đã chết. Cuộc sống tâm linh của họ sẽ thanh thản hơn. Đây là một hình thức sinh hoạt văn hóa mang đậm màu sắc tín ngưỡng dân gian rất đặc trưng của vùng Kinh Bắc.

Theo tín ngưỡng dân gian, rằm tháng bảy còn gọi là ngày xá tội vong nhân. Vào ngày này, tù nhân ở địa ngục có cơ hội được xá tội, thoát sinh về cảnh giới an lành, nên có lễ cúng cô hồn cho các vong linh không nhà cửa, nơi nương tựa, không có thân nhân thờ cúng.

Ở một số nước Á Đông, ngày này thường được tổ chức vào 15-7 âm lịch, để tỏ hiếu với cha mẹ, ông bà và cũng để giúp những linh hồn đói khát. Ở Nhật Bản, ngày này được tổ chức vào 15-7, hay 15-8 âm lịch, để tỏ ước nguyện người ta viết ước nguyện rồi treo vào cây trúc với mong muốn sẽ trở thành hiện thực. Tại Việt Nam, việc cúng rằm tháng bảy bao giờ cũng phải cúng ở chùa trước, rồi mới đến cúng tại gia. Lễ này thường được làm vào ban ngày, tránh làm vào ban đêm, khi mặt trời đã lặn. Vào ngày này, các gia đình đều cúng hai mâm: cúng tổ tiên và cúng chúng sinh. Trên mâm cúng tổ tiên, gia đình bày đặt một mâm cỗ mặn, tiền vàng và cả những vật dụng dành cho người cõi âm như quần áo, giày dép, áo bào, cung điện, ngựa, trang sức… Trên mâm cúng chúng sinh thì lễ vật gồm có: quần áo với nhiều màu sắc, các loại bỏng ngô, chè lam, kẹo vừng, kẹo dồi, bánh quế, cháo, tiền vàng, cốc nước lã hoặc rượu, cốc gạo trộn lẫn với muối, ngô, khoai lang luộc, cháo hoa… và những lễ vật khác dành cho những cô hồn, ma đói không nơi nương tựa.

Trong kho tàng truyện cổ tích của dân tộc, có một câu chuyện kể về đôi vợ chồng trẻ, không may người chồng bị chết oan ức. Anh báo mộng hẹn gặp chị ở phiên chợ Mạch Ma. Tại phiên chợ, hai vợ chồng gặp nhau và anh kể hết sự tình để người vợ lên báo quan nha minh oan cho chồng. Trong cuốn Dư địa chí Hà Bắc cũng có những đoạn nói rất cụ thể và chi tiết về những phiên chợ âm dương tồn tại trong nhân gian. Như vậy có thể khẳng định, sự tồn tại của chợ âm dương là có thật, là một nét văn hóa tâm linh được truyền lại từ ngàn đời nay trong nhân dân. Từ những chất liệu đó, Đặng Nhật Minh đã xây dựng nên phiên chợ âm dương trong Bao giờ cho đến tháng mười.

Cái tài tình của đạo diễn Đặng Nhật Minh trong việc xây dựng nhân vật được thể hiện rõ nét trong trường đoạn chợ âm phủ, bắt đầu bằng việc Duyên diễn vai Thị Phương trong trích đoạn chèo cổ Trương Viên. Tâm trạng của Duyên hoàn toàn giống với tâm trạng của Thị Phương. Hai người phụ nữ một trong văn học, một trong đời thực có hoàn cảnh giống nhau. Người mất chồng diễn cảnh người tiễn chồng. Chính vì vậy khi đến cao trào, Duyên đã không diễn tiếp được. Cô bỏ chạy ra miếu thờ thành hoàng và được biết, nếu muốn gặp chồng thì đợi đến rằm tháng bảy ra chợ âm phủ. Trường đoạn này thể hiện khát vọng của Duyên muốn gặp mặt chồng lần cuối, nhưng không phải trong mơ mà phải ở hiện thực, để được trò chuyện, được đối thoại cùng chồng. Và như thế, chị phải chờ đến rằm tháng bảy.

Trường đoạn đêm rằm tháng bảy đã được chuẩn bị từ đoạn mở đầu phim. Đến ngôi miếu cổ, Duyên nói với người yêu: “Bà em kể trước kia cứ ngày rằm tháng bảy ở cạnh miếu này người ta họp chợ. Những người sống và những người chết được gặp nhau” (2). Đến sau khi chồng tử trận, lạc đến ngôi miếu trong đêm rằm tháng bảy, Duyên gặp lại chồng giữa một khu chợ đông đúc hiện ra trong đêm, sau hình ảnh “những ngọn đèn trôi trên sông dạt vào bãi đá dưới cây muỗm già” (3). Tác giả Ngô Phương Lan đã bình luận về trường đoạn này: “Trong phim, chị Duyên còn gặp lại người chồng của mình cùng với bao người đã khuất tại chợ âm phủ trong đêm rằm tháng bảy. Hầu hết họ là những người lính trẻ như chồng Duyên và cũng ra đi vĩnh viễn vì tổ quốc suốt chiều dài lịch sử dân tộc, trong đó có cả vị thành hoàng làng. Trên nền đêm tối, ta như thấy một tấm thảm phủ đầy những đốm lửa nến cháy chập chờn đến vô tận trong khuôn hình sâu hun hút đầy ấn tượng. Duyên trong chiếc áo sơ mi trắng giản dị cùng đi với người chồng trong bộ quân phục mới, họ muốn nắm tay nhau nhưng không thể chạm vào nhau vì một người còn trong cõi thực, người kia đã ở cõi mộng. Người xem như được dắt vào thế giới tâm linh của người Việt Nam, nơi nỗi đau mất mát là nỗi đau chung, tình yêu lứa đôi và tình cảm gia đình hòa vào tình yêu đất nước”(4).

Trong trường đoạn này có một câu thoại của chồng Duyên: Cái còn lại mãi mãi là cái không thể nhìn thấy được. Đó là câu nói của người đã khuất mang dáng dấp triết lý bát nhã của Phật giáo. Trong khung cảnh nửa thực nửa hư khói sương ảo ảnh của đêm rằm tháng bảy, lời thoại đó vang lên như câu kinh trầm trầm tan vào trong khoảnh khắc sống chết, còn mất, sắc không linh thiêng… Thời gian thiêng liêng của tâm linh đó không chấm dứt một cách đột ngột, mà nó còn tiếp diễn. Duyên về nhà, thấy bố chồng ngồi im lặng trước bàn thờ gia đình trong không gian tranh tối tranh sáng huyền hoặc, ông cụ nói với con dâu: Hôm nay là ngày rằm tháng bảy, bố quên dặn con thắp hương.

Tác giả Ngô Phương Lan coi cảnh Duyên tiến đến bàn thờ thắp hương theo lời ông cụ “là một trong những cảnh quay đêm thành công của điện ảnh Việt Nam, không chỉ ở tạo hình mà còn hiệu quả tạo biểu tượng của nó” (5). Trong khói hương mờ mờ đêm khuya rằm tháng bảy, trên khuôn mặt thành tín của Duyên dường như vẫn còn vang vọng câu nói thấm nhuần triết lý sắc không.

Chỉ trong 10 phút phim ngắn ngủi, nhưng người xem thấy được rất nhiều nét văn hóa dân gian của người dân Việt Nam. Từ tục thờ thành hoàng làng, người có công với nước đến việc thờ cúng tổ tiên và đặc biệt là phiên chợ âm phủ, nét đặc trưng của tín ngưỡng dân gian trong văn hóa Việt. Thấp thoáng đâu đó trong các câu thoại của nhân vật là những triết lý của đạo Phật.

Ngay từ giữa thập niên 80 thế kỷ trước, trong hoàn cảnh đặc biệt vào những năm đất nước chưa đổi mới, khi mà tâm linh còn là lĩnh vực cấm kỵ của văn học nghệ thuật, thì việc đề cập đến yếu tố tâm linh trong phim truyện là một vấn đề lớn. Đạo diễn Đặng Nhật Minh viết: “Khi bộ phim hoàn thành, giám đốc Hải Ninh yêu cầu cắt bỏ trường đoạn chợ âm dương với lý do mê tín dị đoan. Đây là trường đoạn tâm đắc nhất của tôi trong bộ phim này…” (6). Ông viết tiếp: “…đúng như cụ Nguyễn Du viết: Thác là thể xác, còn là tinh anh. Đó là một đặc điểm tâm lý rất Việt Nam. Nhưng giám đốc Hải Ninh không quan tâm đến điều đó. Ông chỉ sợ cấp trên phê bình bộ phim mang màu sắc duy tâm huyền bí, tuyên truyền cho mê tín dị đoan. Trước áp lực của ông, tôi đành nhân nhượng cắt bớt trường đoạn này, điều làm tôi đau xót vô cùng. Ông thường có một lập luận thoạt nghe rất có lý: bộ phim làm ra không phải của cá nhân một ai. Nó là tài sản chung, là cơm áo gạo tiền của Hãng. Nếu có gì trục trặc, trên không cho ra thì hàng trăm cán bộ công nhân viên của Hãng chết chứ không chỉ mình đạo diễn. Bởi vậy người giám đốc mới là người có trách nhiệm chính đối với bộ phim. Tôi không thể chấp nhận cái lập luận kiểu đó và cương quyết không chịu cắt bỏ thêm một cảnh nào nữa trong trường đoạn chợ âm dương. Không còn cách nào dồn ép tôi được, giám đốc Hải Ninh bèn mời các cấp trên xuống xem trước cho an toàn. Có lẽ chưa có phim nào của Việt Nam lại phải duyệt đi duyệt lại nhiều tầng nhiều nấc như bộ phim này. Cứ mỗi nấc duyệt lại nảy sinh thêm những rắc rối mới” (7). Và đạo diễn Đặng Nhật Minh đã đếm được tổng cộng tất cả là 13 lần duyệt.

Cho đến nay, nếu có dịp về thăm làng Hữu Oai bên bờ sông Nhuệ, nơi từng là bối cảnh của phim, người ta khó có thể mường tượng rằng chính ở ngôi miếu, dưới gốc cây đa ấy đã có lúc là nơi gặp gỡ của cõi thực và cõi tâm linh. Thế mới hay sức mạnh của hình tượng màn ảnh có thể làm cho những gì ta vẫn gặp thường ngày trở nên có hồn, có sắc.

Không chỉ ở Việt Nam, bộ phim Bao giờ cho đến tháng mười còn gây được tiếng vang với bạn bè quốc tế: “Không những thế nó còn nhận được mối thiện cảm rất lớn của khán giả nước ngoài. Có lẽ đây là bộ phim Việt Nam đầu tiên đến được với công chúng ngoài biên giới sau năm 1975. Tôi được Đại sứ quán Pháp cấp học bổng sang tu nghiệp tại Pháp trong một năm. Một tháng sau khi tôi tới Paris, Bộ ngoại giao Pháp đã long trọng tổ chức chiếu ra mắt bộ phim này tại rạp chiếu bóng Cosmos trên đại lộ Rue de Reinnes ở trung tâm thành phố. Điều này làm Đại sứ quán ta tại Paris rất ngạc nhiên vì trước tới nay chưa thấy họ làm như vậy bao giờ. Giấy mời tới xem phim được in rất trang trọng. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp Roland Dumas và Bộ trưởng Bộ Văn hóa Pháp Jack Lang cùng đứng tên trên giấy mời. Khách mời là ngoại giao đoàn ở Paris, giới văn nghệ sĩ, điện ảnh Pháp, đại diện Việt kiều. Có thể nói buổi chiếu đã thành công mỹ mãn. Nhà văn kiêm nữ ký giả Pháp Madeleine Riffaut sau khi xem xong nước mắt giàn giụa ôm hôn tôi hồi lâu” (8).

Nếu không có trường đoạn đêm rằm tháng bảy, Bao giờ cho đến tháng mười sẽ không thể để lại ấn tượng sâu đậm và những cảm xúc mãnh liệt như thế. Những vấn đề lớn mang ý nghĩa triết học mà bộ phim đã đề cập như: còn, mất, hạnh phúc, khổ đau, gặp gỡ, chia lìa… cũng trở nên vô nghĩa.

Gần 30 năm kể từ khi bộ phim ra đời nhưng đến nay nó vẫn còn nguyên giá trị trong lòng khán giả. Một trong những điều làm nên giá trị đó chính là yếu tố dân gian được sử dụng nhuần nhuyễn trong phim khiến cho người xem luôn tìm thấy một phần cuộc sống của chính mình trong đó.

_______________

1, 6, 7, 8. Đặng Nhật Minh, Hồi ký điện ảnh, Nxb Văn nghệ, TP.HCM, 2005, tr.89, 91, 93, 95.

2, 5. Đặng Nhật Minh, Bao giờ cho đến tháng Mười – tuyển tập kịch bản điện ảnh, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2002, tr.70, 101.

3, 4. Ngô Phương Lan, Tính hiện đại và dân tộc trong điện ảnh Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin & Viện Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2005, tr.138, 139.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 359, tháng 5-2014

Tác giả : Bùi Thị Hồng Gấm

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *