Những yếu tố tạo thành giá trị nghệ thuật của múa rối nước


 

Múa rối nước Việt Nam từ lâu đã trở thành món ăn tinh thần hấp dẫn đối với người Việt Nam và bạn bè quốc tế. Múa rối nước là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian mang đậm đà bản sắc văn hóa Việt Nam. Những yếu tố làm nên giá trị của nghệ thuật rối nước Việt Nam được thể hiện ngay trong nội dung của tác phẩm và hình thức thể hiện. Đến với múa rối nước Việt Nam, người xem được sống trong không gian sông nước, âm nhạc, cuộc sống nơi đồng quê thôn dã. Các quân rối, nhà thủy đình, trò diễn với tính bất ngờ, kỳ lạ, với những yếu tố vui cười… luôn đem lại những giây phút sảng khoái, truyền thêm tình yêu đời cho người xem rối nước.

Khi nói về các thể loại sân khấu, sức hấp dẫn, lôi cuốn người xem thường thông qua kịch bản, ngôn ngữ văn học và thể hiện bằng nghệ thuật diễn xuất nội tâm, giọng nói, hành động của người diễn viên. Nhưng ở múa rối nước, điều hấp dẫn khán giả chính ở hành động ngoại hình của con rối. Diễn rối không có lời, nhiều trò rối không cần lời như múa tứ linh, cấy cày, bơi chải… Ngay khi rối nước thật sự phát triển, tiếp thu ngôn ngữ văn học, quân rối cũng được biểu hiện bằng hành động ngoại hình là chính. Ngôn từ trong nghệ thuật múa rối nước không phải là điều kiện cần, chỉ mang tính hỗ trợ, không nhất thiết phải có, người xem vẫn hiểu được nội dung thông qua hình ảnh và diễn xuất của quân rối.

Nghệ thuật múa rối nước Việt Nam là một văn phạm thị giác, được viết ra bởi những nhận thức tinh nhạy của con người. Đó là hình thức sân khấu lý tưởng nhất, thể hiện tầm nhìn của người nghệ sĩ. Rối nước không chỉ là nghệ thuật riêng của cộng đồng dân cư người Việt sau lũy tre làng, nó có thể đến với những cộng đồng người ở khắp nơi trên thế giới, thuộc những nền văn hóa khác nhau, bởi chính ở đặc trưng khác biệt với tất cả các thể loại nghệ thuật khác. Người xem có thể hiểu nội dung của trò diễn mà không cần phải hiểu về ngôn ngữ của dân tộc có trò diễn ấy. Từ đó, ai cũng nhận thấy, nội dung truyền tải qua ngôn ngữ biểu hình có tính phổ quát rộng hơn so với sự diễn giải bằng lời.

Mặt khác, tính kỳ là một trong những yếu tố làm nên sự hấp dẫn của nghệ thuật rối nước Việt Nam. Tính kỳ luôn đóng vai trò đặc biệt trong phương pháp nghệ thuật và quyết định sự thành công của trò diễn. Những con rối chuyển động, nhảy múa, ca hát trên mặt nước mà người xem không biết chúng chuyển động bằng cách nào. Hàng loạt cờ phướn bật lên từ trong lòng nước mà vẫn khô ráo; những hoạt động xay thóc, giã gạo, gà mổ thóc, cấy lúa, đánh cá, úp nơm, cá bơi dưới nước đột nhiên ngóc đầu lên đớp mồi câu; cáo lại ngoạm được con vịt, leo được lên cây cau cao vút; rồng lại phun lửa trên mặt nước… Trong mênh mông ao nước, lúc thấy con rối ở đầu bờ ao này, lúc lại ở đầu ao bên kia, làm đủ các trò. Đó là những bất ngờ, kỳ diệu, cuốn hút người xem. Ao nước giúp người nghệ nhân giấu kín que, sào, dây và những đạo cụ khác, để các con rối diễn những trò diễn trong một thế giới đầy bất ngờ, bí ẩn, ngoài sự phán đoán, tưởng tượng của người xem. Tính kỳ của trò diễn rối nước, trong chừng mực nào đó, cũng là sự thể hiện của tính nghịch thường, trái với quy luật của tự nhiên.

Trong tâm thức người Việt và các dân tộc vùng Đông Nam Á khác, rồng bao giờ cũng được coi là vật linh thiêng, là biểu tượng của quyền lực tối thượng, của vua chúa. Nhưng trong rối nước, rồng mang tính kỳ ở chỗ, biết hút nước, phun nước, phun lửa, tạo ra những vệt sáng kỳ lạ trong không gian và trong lòng nước… Lửa – nước là hai yếu tố, theo quan niệm triết học phương Đông, vốn xung khắc, nhưng lửa – nước trong múa rối Việt Nam đã được nghệ sĩ cấu trúc hài hòa trong một chỉnh thể, tạo cho người xem cảm giác thích thú trong cái nghịch thường.

Bên cạnh tính kỳ trong nghệ thuật, múa rối nước Việt Nam còn có tính cười, vui của khán giả. Nội hàm của tính cười, vui ấy, là niềm vui, hồ hởi về trạng thái tâm hồn của khán giả. Có lẽ, không có tính kỳ, nghịch thường với tính cười – vui, chắc không thành trò diễn rối nước. Con rối từ một vật thể vô tri vô giác, nhưng nhờ sự điều khiển khéo léo, tài nghệ của người nghệ nhân, bỗng trở nên sống động như một sinh thể có hồn, đem đến những điều kỳ lạ, cười, vui… Đây chính là biểu hiện cao nhất của cái đẹp trong nghệ thuật múa rối nước. Tính kỳ, cười, vui càng cao bao nhiêu, thì trò diễn càng hay bấy nhiêu. Có lẽ, cũng chính vì tiêu chí này mà các phường rối nước từ xa xưa cho đến nay đã có ý thức trong việc nghiên cứu, tìm tòi miếng trò riêng của phường mình, để thi thố, khẳng định tài năng.

Các phường rối nước xưa thường giao lưu với nhau, các tiết mục tuy có trùng lặp nhưng đều có tính sáng tạo, tính kỳ, tính cười, vui riêng, với những bí quyết nhà nghề riêng. Khi rối nước phát triển, có tục lệ thi đấu, phường rối nào cũng cố tìm ra những trò mới, hay, khéo, lạ để thu hút sự chú ý của người xem, để lại dấu ấn riêng biệt của phường mình. Vì thế, giá trị nghệ thuật của múa rối nước càng đặc sắc hơn. Cùng xuất hiện trên vùng châu thổ sông Hồng, mang những đặc điểm chung của văn hóa vùng, nhưng rối nước mỗi phường lại có những nét độc đáo riêng, làm nên sự đa dạng trong nghệ thuật múa rối nước Việt Nam.

Được tạo hình dựa trên cùng một nguyên tắc của điêu khắc tượng tròn, đều bằng gỗ, nhưng quân rối mỗi phường, mỗi vùng cũng có những nét riêng. Quân rối làng Đống (phường Đông Các) nhỏ hơn quân rối các phường khác (trung bình chỉ cao từ 20-35 cm) do truyền thống biểu diễn lưu động hay còn gọi là rối thùng của phường. Quân rối phường Phú Đa thường có vẻ mặt phúc hậu, từ bi, ít vui tươi hóm hỉnh hơn so với quân rối các phường khác, bởi được tạo nên từ bàn tay của những người thợ điêu khắc làm tượng, chùa xưa. Con rối phường Đào Thục lại có chiều cao nhỉnh hơn so với các phường khác (trung bình 50-60cm) bởi nghệ nhân có kỹ thuật độc đáo hơn trong việc làm nổi. Nét riêng biệt trong kỹ thuật múa rối cũng thể hiện rất khác nhau. Rối nước làng Đống chủ yếu sử dụng các máy sào làm bằng gỗ nghiến (bởi họ biết cách để máy sào không những không bị chịu sức cản của nước mà lại tận dụng được sức đẩy của nước để di chuyển quân rối theo phương thẳng đứng). Phường Phú Đa diễn bằng máy dây (sử dụng dây chão, dây thép căng trên đầu một hệ thống các cọc ngầm từ buồng trò ra sân khấu). Phường Đào Thục lại sử dụng cả hai kỹ thuật truyền thống dùng máy sào bằng tre, sào gỗ, sào kim loại, kết hợp với máy dây bằng chão, dây thép, để điều khiển những con rối lớn. Như vậy, giá trị nghệ thuật của múa rối nước thể hiện rất rõ ở những dấu ấn địa phương, từ quân rối, kỹ thuật máy, kỹ thuật điều khiển, hay cùng một trò diễn giống nhau, nhưng mỗi phường, mỗi địa phương lại thể hiện khác nhau…

Nói tới giá trị nghệ thuật của rối nước, không thể quên Tễu, nhân vật mang tính biểu tượng của múa rối nước, của văn hóa lúa nước Việt Nam. Cùng một nhân vật Tễu nhưng Tễu làng Đống to hơn và hoạt động linh hoạt hơn so với Tễu của các phường khác qua các động tác: gật đầu, đưa tay lên cao, xuống thấp, xoay ngang, qua trái, qua phải, đi vòng khắp sân khấu và thông minh, hóm hỉnh, nghịch ngợm, sinh động với lời giáo: “Nay mừng vận mở thái hòa, Tễu tôi nhanh nhảu bước ra trình trò”.

Ngoài phạm vi quân rối, kỹ thuật, kỹ xảo của các máy móc điều khiển quân rối, nghệ thuật múa rối nước vùng châu thổ sông Hồng còn mang tính nguyên hợp: có tích, có trò, có ca, múa, nhạc, diễn, hề… trên cơ sở của tư duy nguyên hợp ba trong một. Hình tượng rối được sáng tạo theo nguyên tắc tả thực bằng khác thực, miêu tả cuộc sống hiện thực bằng quân rối, ca múa nhạc, sân khấu nước… Tuy nhiên, tính nguyên hợp trong múa rối nước nổi trội hơn so với xiếc, vì nó kế thừa được giá trị văn hóa, văn minh lúa nước của người Việt vùng châu thổ sông Hồng. Múa rối nước là sự kết hợp tổng hòa, nhuần nhuyễn giữa nghệ thuật chế tác và tạo hình quân rối, nghệ thuật biểu diễn dân gian với kỹ thuật lắp máy, dây điều khiển quân rối, âm nhạc dân gian. Đặc biệt, hình ảnh nghệ nhân dùng sào, dùng gậy để múa rối gợi liên tưởng đến việc người xưa đã dùng mái chèo khấy động mặt nước trong các cuộc đua thuyền tại các ngày lễ hội… Trong điều kiện tự nhiên của vùng sông nước, phương tiện giao thông bằng thuyền là sự lựa chọn, thích ứng của con người. Bởi vậy, hành động đẩy thuyền, kéo thuyền trở thành thói quen thường nhật của con người, chẳng khác nào hành động đẩy sào, kéo dây trong múa rối nước. Đây là sự sáng tạo dựa trên nguyên lý kỹ thuật kéo, đẩy, kết hợp với sức nước. Điều này làm nên giá trị nghệ thuật của múa rối nước, cũng chính là giá trị của nghệ thuật dân gian Việt Nam.

Yếu tố âm nhạc giữ vai trò quan trọng, tạo nên sự hấp dẫn của loại hình múa rối nước. Trước đây, khi giai điệu âm nhạc chưa xuất hiện, thì bộ gõ là những nhạc cụ sơ khai của múa rối nước. Múa rối nước cần âm thanh mạnh, để giữ tiết tấu và khuấy động không khí buổi diễn trong không gian ngoài trời, trong các lễ hội làng ồn ào, náo nhiệt. Tiếng trống rộn ràng, cùng với mặt nước phản âm khiến âm thanh càng thêm vang xa, náo động, tạo nên sự hấp dẫn, cuốn hút, tác động mạnh tới cả người diễn lẫn người xem. Các nhạc cụ gõ sử dụng trong múa rối nước là: trống cái, trống con, trống cơm, mõ, thanh la, não bạt. Khán giả đến với nghệ thuật rối nước không chỉ xem những con rối ngộ nghĩnh, chuyển động tài tình trên mặt nước, mà còn được thưởng thức không khí biểu diễn náo nhiệt, sôi động, phấn khởi từ âm nhạc của bộ gõ. Qua âm nhạc, người nghệ nhân mới có thể diễn tả được hết vẻ đẹp của con rối. Âm nhạc là công cụ đắc lực trong việc thể hiện tâm tư, tình cảm của con rối vô tri mà lời thoại không thể chuyển tải hết. Âm nhạc còn làm nhiệm vụ gắn kết các trò diễn với nhau, giúp người xem không có cảm giác vụn vặt giữa các trò diễn, nội dung truyền tải tốt hơn, tạo nên sự giao lưu, gần gũi giữa con rối và người xem. Chính điều này làm cho khán giả thoải mái, thích thú theo dõi từ đầu đến cuối buổi diễn.

Nếu chú Tễu là một biểu tượng của múa rối nước, thì thủy đình, nơi biểu diễn rối nước, là một yếu tố góp phần làm nên nét độc đáo trong giá trị nghệ thuật của múa rối nước. Trong thực tế, đã có đến 28 phường hội rối nước dân gian ở 11 tỉnh khu vực châu thổ sông Hồng. Thủy đình được dựng lên giữa ao, hồ với kiến trúc cân đối, tượng trưng cho mái đình của vùng nông thôn Việt Nam. Thủy đình có mặt bằng kiến trúc hình vuông, mái lợp được chia làm hai lớp âm dương, bốn cột cái đỡ các mái trên đầu và gánh chịu một đầu các mái dưới ở giữa. Mười hai cột con sắp thành hàng quanh bốn bên đỡ đầu còn lại của các mái dưới. Hai mái được lợp bằng ngói mũi hài xếp chồng lên nhau theo hình vẩy cá. Nơi giáp góc các mái đều được làm thành những đầu đao uốn lượn cong lên. Nếu tính từ mặt nước lên tới nóc thì cả mái trên và mái dưới cộng lại cao gấp đôi phần thân nhà. Dù được xây gằng gạch hay dựng bằng gỗ thì thủy đình vẫn được mở thông ra nhiều hướng. Tư duy người Việt thường gắn giá trị thẩm mỹ với giá trị ích dụng. Vì vậy, thủy đình với kiến trúc như vậy sẽ không có nhiều công năng sử dụng, nên đã có ít nhà thủy đình ở các phường rối. Tính độc đáo của thủy đình rối nước chính là ở chỗ thường tọa giữa ao làng, trong một tổng thể không gian kiến trúc của đình, đền, chùa, miếu… không những đẹp về kiến trúc mà còn mang đậm ý nghĩa phong thủy trong sinh hoạt cộng đồng làng xã…

Múa rối nước là một loại hình sinh hoạt văn hóa truyền thống lâu đời của cư dân nông nghiệp vùng châu thổ sông Hồng. Nghệ thuật múa rối nước luôn mang đậm bản sắc dân tộc với hình ảnh trực quan, sinh động khiến khán giả thấy được bức tranh cuộc sống sinh hoạt, tín ngưỡng văn hóa của người dân Việt Nam. Chính những quân rối được thiết kế đầy sáng tạo, mang dấu ấn của từng địa phương, cùng tính kỳ, tính nghịch thường, tính cười, vui trong mỗi trò diễn, sự độc đáo của thủy đình, âm nhạc… đã tạo nên sức hấp dẫn của nghệ thuật múa rối nước.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 360, tháng 6-2014

Tác giả : Lê Thị Thu Hiền

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *