Phát triển văn hóa việt nam theo tinh thần đại hội xii của đảng

Văn kiện Đại hội XII của Đảng tập trung đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, xác định phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững trong nhiệm kỳ. Nội dung đánh giá chủ yếu dựa trên cơ sở Văn kiện Đại hội XI và các nghị quyết Trung ương nhiệm kỳ XI cũng như thực tiễn đất nước 5 năm 2011- 2015. Trong đó, Nghị quyết Hội nghị TƯ 9, số 33-NQ/TW Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã phản ánh những bước phát triển trong nhận thức lý luận và chỉ đạo thực tiễn của Đảng, đang được triển khai thực hiện và còn nguyên giá trị, được Đại hội XII đã tiếp thu, chọn lọc những nội dung cốt lõi và nâng lên tầm văn kiện Đại hội, đồng thời căn cứ vào yêu cầu, điều kiện cụ thể của đất nước để lựa chọn những nhiệm vụ, giải pháp cần thực hiện trong 5 năm tới.


1. Tình hình phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay theo nhận định Đại hội XII của Đảng

Đối chiếu với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế được nêu trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 và nhiệm vụ chăm lo phát triển văn hóa được xác định trong văn kiện Đại hội XI của Đảng, văn kiện Đại hội XII đã đánh giá tình hình thực hiện như sau:

Những kết quả nổi bật

Một là, sự phát triển văn hóa đã gắn với nhiệm vụ xây dựng con người đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Văn hóa góp phần xây dựng những phẩm chất mới của con người như mặt bằng dân trí, trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, tính chủ động, sáng tạo… Hai là, việc ứng xử với văn hóa truyền thống được nhìn nhận thỏa đáng hơn và có bước khởi sắc, nhất là trong điều kiện hội nhập, giao lưu văn hóa với thế giới. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và của từng vùng, miền được kế thừa; nhiều di sản văn hóa được bảo tồn, tôn tạo. Ba là, xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng mở rộng. Điều đó liên quan chặt chẽ tới nhiều bình diện như: văn học, nghệ thuật có bước phát triển; truyền thông đại chúng phát triển nhanh cả về loại hình, quy mô, lực lượng, phương tiện và ảnh hưởng xã hội. Do vậy, đời sống văn hóa nhân dân được cải thiện. Bốn là, việc xây dựng môi trường văn hóa được chú trọng hơn. Do vậy, phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đã khơi dậy được nhiều giá trị nhân văn trong cộng đồng. Năm là, công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường; hệ thống thể chế, thiết chế văn hóa từng bước được củng cố và vận hành tốt. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc.


 Ngày hội Văn hóa các dân tộc. Ảnh Tuấn Đức  

Những hạn chế, yếu kém

Thứ nhất, việc xây dựng nền văn hóa xét ở tầm vĩ mô vẫn còn nhiều bất cập; so với những thành quả trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành quả trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Thứ hai, cùng với tình trạng xuống cấp đáng lo ngại về một số mặt trong đạo đức, lối sống là tình trạng nghèo nàn, đơn điệu về đời sống văn hóa ở nhiều nơi, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa… Môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng. Thứ ba, việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa đạt hiệu quả chưa cao; hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực, một số cơ quan truyền thông có biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích, chưa làm tốt chức năng định hướng dư luận và xây dựng con người. Thứ tư, hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, kém hiệu quả. Quản lý nhà nước về văn hóa còn nhiều bất cập. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ.

2. Định hướng phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay theo tinh thần Đại hội XII của Đảng

Xuất phát từ tình hình thực tiễn, Đại hội XII đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam trong thời kỳ mới, cả về tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt và về những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể.

Về tư tưởng chỉ đạo phát triển văn hóa

Kế thừa, phát triển những quan điểm chỉ đạo và những định hướng lớn của Đảng được thể hiện trong Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII và những nội dung văn kiện Đại hội XI của Đảng về văn hóa, Hội nghị TƯ 9 khóa XI đã ban hành Nghị quyết về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước với 5 quan điểm chỉ đạo. Điều đó đánh dấu bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận văn hóa của Đảng, chỉ rõ quan hệ biện chứng giữa văn hóa, con người; xác định đầy đủ hơn những đặc trưng của văn hóa và đặc tính của con người Việt Nam trong thời kỳ mới; nhấn mạnh sự cần thiết phải gắn kết văn hóa với chính trị, kinh tế, xã hội; đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và trách nhiệm của các đoàn thể chính trị – xã hội, của nhân dân, đặc biệt của đội ngũ trí thức, đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con người.

Khái quát những quan điểm của Nghị quyết TƯ 9 khóa XI, văn kiện Đại hội XII nhấn mạnh tư tưởng chỉ đạo: “Các cấp, các ngành phải nhận thức đầy đủ và thực hiện có kết quả mục tiêu: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Trong tư tưởng chỉ đạo này, có hai điểm quan trọng nổi bật: thứ nhất, xây dựng, phát triển nền văn hóa phải gắn chặt với xây dựng, phát triển con người không tách khỏi cội nguồn dân tộc. Thứ hai, văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội, mà là sức mạnh nội sinh trực tiếp để phát triển bền vững.

Về nhiệm vụ, giải pháp phát triển văn hóa

Trước đây, trong văn kiện Đại hội XI xác định bốn nhiệm vụ cần tập trung thực hiện để phát triển văn hóa: củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng; phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa truyền thống, cách mạng; phát triển hệ thống thông tin đại chúng; mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hóa.

Kế thừa quan điểm ấy, Nghị quyết Hội nghị TƯ 9 khóa XI phát triển thành sáu nhiệm vụ: xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; xây dựng văn hóa trong chính trị, kinh tế; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa; phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa;  chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa. Từ đó, Nghị quyết TƯ 9 khóa XI đề ra bốn nhóm giải pháp: Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa; xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa; Tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa.

Kế thừa và phát triển các quan điểm trên đây trong sự đối sánh với yêu cầu, điều kiện cụ thể mới của đất nước 5 năm tới, Đại hội XII lựa chọn, nêu khái quát định hướng các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu về phát triển văn hóa và con người Việt Nam. Nhiệm vụ thứ nhất trực tiếp nhằm phát triển con người, tất nhiên trong quan hệ không tách rời với phát triển văn hóa. Riêng đối với phát triển văn hóa có các nhiệm vụ trực tiếp gồm:

Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế

Vấn đề xây dựng môi trường văn hóa đã được đề cập trong các nghị quyết trước đây, song trong bối cảnh tiếp tục phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì cần chú trọng các vấn đề: xây dựng môi trường văn hóa, đời sống văn hóa trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình… góp phần giáo dục, rèn luyện con người; đặc biệt là xây dựng môi trường văn hóa gắn với thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam cũng như các hình thức tổ chức cộng đồng xã hội khác thật sự là trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con người; đồng thời thường xuyên quan tâm xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh trong đời sống xã hội gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn hóa, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa và chăm lo đời sống văn hóa người dân”.

Đề cao nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế

Đây là nhiệm vụ mới, liên quan đến sự đổi mới tư duy về đặt văn hóa ngang bằng với các lĩnh vực kinh tế và chính trị, đồng thời nhận thức đúng đắn mối quan hệ hữu cơ, đan xen, chuyển hóa biện chứng giữa văn hóa với kinh tế và chính trị. Do đó cần chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước, các đoàn thể như là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị. Đồng thời, thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế; xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân… vì sự phát triển bền vững của đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa

Đây vốn là một nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên, song trong điều kiện hiện nay cần đặc biệt chú trọng các vấn đề: bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế – xã hội. Đối với các hoạt động thuần văn hóa cần chú trọng đến sự nghiệp văn học, nghệ thuật, khuyến khích tự do sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ gắn với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân.

Làm tốt công tác lãnh đạo, quản lý báo chí, xuất bản

Không phải ngẫu nhiên mà ở các nước tiên tiến, người ta coi lĩnh vực này như là quyền lực thứ tư (sau các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, tương dung như quyền giám pháp). Trong đó, các vấn đề hết sức quan trọng là quy hoạch, sắp xếp hợp lý, phát triển lành mạnh, quản lý hiệu quả hệ thống báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình, các loại hình thông tin trên internet để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ.

Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hóa

 Đây là một nhiệm vụ mới, liên quan đến sự đổi mới tư duy về phát triển văn hóa phù hợp với tiêu chí của sự nghiệp công nghiện hóa, hiện đại hóa. Tất nhiên, cần phân định xác đáng giữa hai tư cách của công nghiệp văn hóa: tư cách bộ phận của nền kinh tế, thuộc phạm trù kinh tế với tư cách một phương thức vận hành nền văn hóa, đem lại giá trị văn hóa từ một lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Để thực hiện nhiệm vụ này, cần phải: có cơ chế khuyến khích đầu tư để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hóa; tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch… phát triển; đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hóa; tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam…

Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại

Cần chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc. Đồng thời, cần chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức để giữ gìn bản sắc dân tộc; hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái…

Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm để văn hóa, văn học nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong sáng tạo. Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Hoàn thiện các thiết chế văn hóa, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, về quyền tác giả, các quyền liên quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam. Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa, nhất là chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở. Tăng mức đầu tư của Nhà nước cho văn hóa một cách thỏa đáng gắn với mở rộng xã hội hóa nguồn đầu tư.

Như vậy, hệ thống quan điểm của Đảng về lãnh đạo sự nghiệp phát triển nền văn hóa Việt Nam đã ngày càng được hoàn thiện. Đối với mỗi thể chế chính trị – nhà nước, nhất là đối với một đảng chính trị cầm quyền, vấn đề nhận thức và xử lý văn hóa trong tính cách là một mặt, một lĩnh vực của đời sống xã hội có tính độc lập tương đối so với các mặt, các lĩnh vực khác luôn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Văn hóa thể hiện vai trò to lớn đối với phát triển bền vững mọi lĩnh vực đời sống xã hội, gắn bó chặt chẽ với cách mạng xã hội và tiến bộ xã hội, mà trực tiếp là phát triển con người ở phương diện văn hóa hóa đời sống cộng đồng cũng như văn hóa hóa từng nhân cách cá nhân. Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã dần dần được nhận thức đầy đủ hình hài của nó, đồng thời vai trò tất yếu của nó trong xây dựng con người Việt Nam mới được khẳng định một cách có chiều sâu bản chất. Đó là những bước phát triển theo chiều sâu lý luận văn hóa, cho phép hoàn thiện những quan điểm cơ bản cũng như cụ thể hóa thành chiến lược, thể chế, thiết chế… để xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam xứng với tầm vóc và phát huy được sức mạnh mềm của nó đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển bền vững đất nước trong điều kiện hội nhập.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 383, tháng 5-2016

Tác giả : ĐẶNG VĂN SÁNH

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *