MỸ CẢM AWARE VÀ MỘT SỐ QUAN NIỆM THẨM MỸ ĐƯƠNG ĐẠI NHẬT BẢN

Từ xưa đến nay, người Nhật luôn lấy mỹ học làm kim chỉ nam và hướng đến cái đẹp là mục tiêu cao nhất của tác phẩm nghệ thuật. Việc định hướng thẩm mỹ trở thành nguyên tắc sáng tạo nhằm tạo nên phong cách nghệ thuật của nghệ sĩ. Cũng vì thế, mỹ cảm phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng lớn đối với văn học như aware, wabisabi và yugen. Trong đó, aware là mỹ cảm hình thành từ rất sớm và có sự ảnh hưởng sâu rộng nhất.

 

Quá trình hình thành và phát triển của mỹ cảm aware

Thuật ngữ aware xuất hiện từ thời kỳ Nara (710 – 794) và được xem là mỹ cảm từ thời kỳ Heian (794 – 1185). Trải qua quá trình phát triển, mỹ cảm này được định nghĩa lại vào TK XVIII với thuật ngữ mới mono no aware và tạo nên phạm trù mới trong xã hội hiện đại Nhật Bản.

Thuật ngữ aware dùng để chỉ xúc cảm của người Nhật. Nghĩa gốc của aware là một cảm thán từ “A! Ware” tương tự như “A!” hay “Ô!”, được dùng biểu thị sự ngạc nhiên, đặc biệt đối với vẻ đẹp của sự vật. Đó có thể là rung động của cảm xúc con người khi đối diện với nỗi buồn tột cùng và cũng có thể là sự vui thích trước vẻ đẹp vạn vật. Trong Vạn diệp tập, tập thơ cổ nhất và lớn nhất Nhật Bản được biên soạn trong cuối TK VIII, aware vẫn còn có nghĩa xúc cảm chân thành, nhẹ nhàng, cảm kích trước vẻ đẹp của sự vật. Nghĩa gốc của từ aware (danh từ) là từ awarei (tính từ), có nghĩa là buồn thương và bi cảm. Aware dùng để đề cao xúc cảm thực sự, bao gồm cả sự cảm kích trước nỗi buồn, niềm vui thích, sự khoái lạc, hân hoan, vui sướng và khó diễn tả thành lời.

Đầu thời kỳ Heian, aware biến thành một danh từ để chỉ quan niệm thẩm mỹ của người Nhật. Xét về mặt nghĩa, aware biểu thị “nỗi buồn thoáng qua” (1). “Aware cũng biểu hiện xúc cảm nhất thời, xuất hiện trong giây lát, khoảnh khắc của sự sửng sốt, ngạc nhiên hay cảm giác bỗng thấy rùng mình, run sợ” (2). Aware đã biến chuyển mạnh mẽ vào cuối thời kỳ Heian và mang lại sắc thái mới, thể hiện rõ nhất trong sự ám ảnh của cái chết. Vậy nên, từ những cảm kích nhất thời trước cái đẹp như một sự cảm thán, aware chuyển sang một thuật ngữ cô đọng chứa đựng nhiều xúc cảm thâm trầm trước vẻ đẹp chóng tàn phai.

Cho đến TK XVIII, nhà nghiên cứu Motōri Morinaga đã cụ thể hóa quan niệm này bằng cách đưa ra thuật ngữ mới mono no aware, thay thế cho aware. Tách nghĩa ra thì mono có nghĩa là sự vật, no nghĩa là của và aware là nỗi buồn, đấy chính là niềm bi cảm trước sự vật. Học giả cũng giải thích rằng đây là cảm xúc chân thành và tao nhã của con người trước sự biến đổi của vẻ đẹp tạo hóa. Theo lý thuyết, nghĩa của mono no aware mang tính bao quát, toàn diện, thể hiện cảm xúc của con người dưới sự tác động của vạn vật. Trong thực tế, việc sử dụng thuật ngữ này thường được tập trung vào vẻ đẹp của sự phù du và khả năng đồng cảm với vẻ đẹp ấy của tâm hồn nhạy cảm.

Khi biến đổi aware thành mono no aware, các học giả nhằm nhấn mạnh yếu tố tác động (sự vật) hơn là bị tác động (con người). Dù có thay đổi thuật ngữ sang dạng thức khác nhưng đặc điểm của aware vẫn không có sự thay đổi đáng kể. Nhìn từ nội dung biểu hiện của aware, có thể thấy rõ điều đó.

Đặc điểm nổi bật của aware là nỗi buồn dịu dàng, man mác và biểu hiện thầm kín, nhẹ nhàng. Vậy nên, aware là cảm xúc lãng mạn và đầy nữ tính. Có rất nhiều định nghĩa về aware nhấn mạnh yếu tố nữ tính trong sự biểu hiện của cảm xúc. “Aware (bi ai) là xao xuyến trước mọi vẻ đẹp nao lòng của sự vật. Nó tương tự như một âm thanh vang vọng lại khi những gì đã qua, sắp qua sẽ tác động vào thế giới hiện hữu bằng     một âm thanh nào đó… là một bi cảm thâm trầm” (3). Có thể thấy, thông qua aware, người Nhật cảm nhận vẻ đẹp bằng kinh nghiệm thẩm mỹ, xúc cảm, đồng cảm của con tim đối với sự vật. Do vậy, aware là trạng thái của cảm xúc do chủ quan tạo ra hơn là kinh nghiệm khách quan mang đến, một trạng thái tâm lý bên trong hơn là bên ngoài. Vì thế, “aware là một thứ cảm xúc hay tâm trạng sâu lắng khi chạm tới sự cơ vi và mong manh của đời người” (4).

Từ nội dung biểu hiện trên, quan niệm aware chứa đựng những tư tưởng và triết lý của tôn giáo. Trước hết, aware thể hiện sự hòa hợp, tương thông và đồng cảm với tự nhiên. Đấy chính là sự đề cao xúc cảm bên trong, là trái tim biết thấu hiểu vạn vật. Có thể lý giải cảm xúc aware theo quá trình như sau: sự viên mãn của cái đẹp dự báo trước sự tàn phai bởi tất cả sự vật trên thế gian này đều nằm trong quy luật sinh, trụ, hoại, diệt nên vạn vật phù du theo định mệnh. Sự tồn tại của cái đẹp chỉ là nhất thời vì trong phút chốc có thể ra đi nhưng vẻ đẹp của nó tồn tại vĩnh hằng trong sự tri nhận của con người. Trước khi sự tàn phai đến, cái đẹp luôn phải tỏa sáng hết mình dù ngày mai có biến mất khỏi thế gian. Khi đó, aware xuất hiện khi con người có thể dự cảm được sự tàn phai của vẻ đẹp trong bước đi của thời gian, trong sự viên mãn của sự vật. Cho nên, aware được gói gọn trong nỗi buồn trước quy luật của vẻ đẹp, sự ra đi của thời gian và biến đổi của không gian, tạo nên lớp lớp nỗi sầu chất chứa mênh mang. Nỗi buồn chính là vẻ đẹp sâu kín nhất, cuốn hút nhất đối với chủ thể cảm xúc. Vẻ đẹp chóng tàn có sức lan tỏa và mãnh lực lớn và cũng là đặc điểm mỹ cảm đẹp mà buồn của người Nhật. Sự tồn tại của vẻ đẹp cảnh vật thì ngắn ngủi còn hương thơm của nó lưu truyền đến ngàn đời sau. Như vậy, aware gợi nên những xúc cảm lãng mạn và dư tình trước vẻ đẹp có hồn, có sức lay động mãnh liệt, nhất là đối với những tâm hồn nhạy cảm của nghệ sĩ.

Bên cạnh yếu tố tôn giáo đặc trưng, aware chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội. Từ thời kỳ Heian, vương triều Heian giai đoạn đầu đang trong đỉnh cao cực thịnh của sự xa hoa, bình an và hưởng lạc. Con người thụ hưởng không khí cuộc sống bình yên sau những biến cố chính trị. Văn hóa dân tộc Nhật đã phát triển rực rỡ chưa từng thấy, văn học cũng đạt nhiều thành tựu quan trọng. Hệ thống mỹ học Nhật được hình thành. Người Nhật, nhất là tầng lớp nghệ sĩ thường có tâm hồn mẫn cảm với thời cuộc. Trước cuộc sống đủ đầy, họ bất giác nhận ra những bất ổn và suy tàn của xã hội.

Bằng sự giao hòa trong quan niệm thẩm mỹ truyền thống, xúc cảm aware xuất hiện trở lại đầu TK XX. Không đơn thuần mang đến những rung động nhất thời đối với hiện tại như cảm xúc thích thú, ngạc nhiên hay u buồn của thời Heian, mỹ cảm aware có diện mạo mới. Aware chú trọng xúc cảm cá nhân dâng trào lên mãnh liệt với những cảm thông, chia sẻ và hòa điệu với tâm thức của toàn dân tộc. Những xúc cảm chân thành và đầy ý nghĩa nhân văn của nhà văn thấm đẫm tinh thần hiện sinh đã làm nên sự khác biệt trong những cảm xúc bi ai. Trong đó, cái đẹp thuần khiết và hư ảo như một sứ giả kết nối nhân loại cùng hướng về thế giới tươi đẹp hơn. Cảm xúc do aware tạo nên được kéo dài và trầm lắng hơn, xúc cảm được kìm nén cao độ trong cảm nhận của con người. Từ đó, có thể đề xuất định nghĩa mới về mỹ cảm này: Aware là một quan niệm thẩm mỹ dùng để chỉ cảm xúc buồn mênh mông trước vẻ đẹp bản thể, khuyết thiếu và hư ảo của tạo hóa.

2. Một số quan niệm thẩm mỹ khác có sự ảnh hưởng của mỹ cảm aware

Trong lịch sử mỹ học Nhật Bản, có rất nhiều mỹ cảm có mối liên hệ với aware. Các mỹ cảm này xuất hiện từ rất sớm, cho đến nay, hầu hết vẫn được xem là khái niệm mỹ học đương đại Nhật Bản.

Cùng thời kỳ Heian, thuật ngữ miyabi (雅) có nghĩa là trang nhã, thanh lịch, tinh tế và sang trọng. Đây là xu hướng trở thành chuẩn mực và phong cách sống cho giới quý tộc Nhật. Miyabi cũng được dùng để bộc lộ xúc cảm của con người trước cái đẹp nữ tính như aware. Đó chính là xúc động thầm kín của con người về sự mong manh của tạo hóa, dẫn đến quan niệm rằng những thứ không còn tồn tại chính là đối tượng của xúc cảm của miyabi. Như vậy, miyabi là quan niệm đặc trưng cùng thời và có sự gần gũi với aware hơn cả.

Cho đến thời kỳ Kamakura (1185 – 1333), quan niệm thẩm mỹ có những thay đổi. Aware không còn đóng vai trò chủ đạo trong văn học và đời sống văn hóa Nhật. Mỹ cảm tiêu biểu thời kỳ này là yugen (幽玄, u huyền), có những đặc tính như được rút ra từ aware, mang tính thần bí, thâm sâu, tĩnh lặng, biến chuyển và buồn thương. Hầu như không có định nghĩa nào giải thích hết các lớp nghĩa của thuật ngữ này. Từ yugen xuất hiện đầu tiên trong các tác phẩm viết về triết học của Trung Hoa, nó có nghĩa là mơ hồ, thần bí. Trong cuốn Hojoki, tác giả Komo no Chomei đã cho rằng, yugen là mối quan tâm đầu tiên của ông. “Nó như một buổi sáng mùa thu bao la, thanh vắng và tĩnh mịch, chúng ta mơ tưởng lại và tự nhiên không kìm nén được những giọt lệ tuôn trào. Những cách hiểu khác đều đề cập đến khả năng tưởng tượng rất quan trọng. Ví như khi ngắm một ngọn núi trong sương mờ thì cảnh vật rất mờ ảo, mơ hồ, chưa thể đoán định ra kích thước của nó cao rộng bao nhiêu. Hay dù cho có thể nhìn thấy những chiếc lá thu trong sương thì cảnh vật rất quyến rũ. Phong cảnh và khung cảnh vô hạn tạo nên cho chúng ta sự tưởng tượng phong phú, thú vị hơn và bất cứ cái gì cũng có thể rõ ràng hơn trong sự tưởng tượng đó. Như vậy, yugen dùng để chỉ cái sâu thẳm huyền bí của vạn vật” (5). Đặc điểm này khá giống với tinh thần Thiền trong aware về sự tương giao cảm xúc giữa con người và thiên nhiên. Có thể xem yugen và aware có mối liên hệ nhất định như trên và cũng có sự khác biệt. “Aware chú trọng đến khoảnh khắc, nỗi vô thường, đến bản thân sự vật, không mấy quan tâm đến cái bóng vô tận ở sau hoặc trong sự vật. Còn yugen thì không dừng lại hình sắc, nó gợi ra tính chất huyền diệu thăm thẳm của cuộc sống, cái ẩn giấu nhưng lại là sự sống, là linh hồn của hình sắc. Aware có màu sắc lãng mạn, yugen là bóng tối biểu tượng. Aware thuộc về cảm xúc, yugen nằm ở tâm linh” (6).

Wabisabi (侘寂, u tịch) là khái niệm từng được xuất hiện trong Vạn diệp tập và đến thời của Basho thì nở rộ. Sabi (shi) – 寂 (しい) được khắc họa bằng sự tĩnh mịch và cô độc dường như thường xuyên, tạo nên sự độc đáo giữa hai yếu tố chủ quan và khách quan. Nghĩa rộng của Sabi là cô tịch, cô liêu. Sabireru có nghĩa là hoang vắng. Sabi hướng đến cái cô độc, nhẫn nhục, thanh bình, mang tính chất bình dân trong nền văn hóa thời Edo (1600-1868). Nó còn dùng để diễn tả cái hiu quạnh, cô liêu đến mức vẻ đẹp xuất hiện hầu như rất nhạt nhòa. Làm nền tảng cho mỹ cảm này là quan điểm vũ trụ điển hình của Phật giáo trung đại, công nhận sự cô độc hiện hữu ở mọi chúng sinh và cố tự mình nhẫn nhục, hoặc thậm chí tìm kiếm vẻ đẹp bên trong sự cô độc ấy. Như vậy, hiểu một cách đơn giản, Wabisabi là vẻ đẹp được tìm thấy trong sự cô liêu, tàn phai của nhân thế. Cái đẹp nằm trong cái buồn đang hiển hiện trên đỉnh cô phong. Đó là quan niệm mỹ học liên quan sâu xa đến aware trong nỗi buồn trước sự tàn phai của cái đẹp.

Iki và sui (意気, quý pháivà 粋, gợi cảm) là quan điểm mỹ học và đạo đức của thị dân trong thời kỳ Edo (1600 – 1868). “Về mặt mỹ học, cả hai khái niệm đều hướng đến vẻ đẹp kiểu tư sản, hợp thời trang, thanh lịch, mang sắc thái gợi cảm. Về mặt đạo đức, người ta hình dung một đời sống tao nhã của một con người giàu có nhưng không gắn với tiền bạc, thích thú vui khoái lạc nhưng không hề có ham muốn xác thịt, hiểu được mọi rắc rối, phức tạp của cuộc sống trần tục nhưng có khả năng tự mình thoát khỏi ràng buộc” (7). Đặc điểm của Iki và sui, giống với aware, thể hiện ở những hiểu biết đồng cảm xúc ở con người. Iki chỉ tâm hồn, tình cảm cao thượng, cách ăn mặc, tác phong của một con người. Sui thường được nói tới vẻ đẹp gợi cảm, tinh tế hơn nên dùng để mô tả phụ nữ mà đặc biệt là người liên quan đến việc vui chơi giải trí.

Kawaii (かわいい) là thuật ngữ xuất hiện từ những những năm 1870, có nghĩa là dễ thương, đáng yêu, xinh đẹp. Trong xã hội hiện đại, từ này được dùng như một thuật ngữ mang xu hướng đặc trưng nhất cho văn hóa Nhật, được phản ánh trong các khía cạnh của xã hội như trang phục, ẩm thực, vật phẩm, lễ nghi, hành vi ứng xử… Tomoyuki Sugiyama, trong Nhật Bản tuyệt vời, cho rằng, khuynh hướng này bắt nguồn từ việc yêu chuộng sự hài hòa. Cũng như thế, Nobuyoshi Kurita khẳng định kawaii là “cụm từ thần kỳ”, có thể chứa đựng tất cả những gì đẹp đẽ và đáng trân trọng tại Nhật Bản. Kawaii xuất hiện với tư cách là một từ cảm thán, có nghĩa là “dễ thương quá!”. Khái niệm này được các nhà nghiên cứu mỹ học xếp vào một trong số các phạm trù mỹ học Nhật Bản cũng bởi trào lưu và phong cách này nở rộ trong mấy thập kỷ qua ở Nhật và trên thế giới. Khác với aware, nỗi buồn thâm trầm hầu như không hề xuất hiện trong cụm từ này. Cũng như aware, kawaii cũng thể hiện đặc tính dễ thương, nữ tính và mềm mại của sự vật, tiêu chuẩn cái đẹp hiện đại Nhật Bản. Từ sự vật dễ thương sẽ gợi nên sự đồng điệu cảm xúc của người thưởng thức và người nghệ sỹ tạo ra sản phẩm đó. Nếu thời cổ Heian, aware là quan niệm mang tính nền tảng cơ bản, lâu đời và nổi bật nhất thì ngày nay, thay vào đó là kawaii, một từ thông dụng của người Nhật, chứa đựng rất nhiều cảm xúc bên trong cũng như để lại dấu ấn trong văn học, văn hóa đương đại. Bởi thế, khi hệ thống hóa lịch sử văn học Nhật Bản, Mitsuyoshi Numano đã dùng hai thuật ngữ này để khái quát đặc điểm của văn học Nhật Bản một cách cô đọng (8).

Aware đã trải qua quá trình phát triển lâu đời trong lịch sử mỹ học Nhật Bản. Đặc trưng của aware là thể hiện những khoái cảm thẩm mỹ chứa đựng nỗi buồn lắng sâu trong cảm thức tôn giáo về sự tồn tại của tạo hóa. Vẻ đẹp theo quan niệm của aware là những đặc tính của sự vật gợi lên cảm xúc đặc biệt đối với người cảm nhận, vẻ đẹp không toàn vẹn toát lên sự tự nhiên, giản dị, thuần khiết, mong manh, đậm tính nữ.

Bên cạnh đó, thông qua việc làm rõ những mối liên hệ giữa các mỹ cảm về sau này trong văn hóa Nhật Bản với aware, có thể khẳng định rằng mỹ cảm aware bắt nguồn và có sức sống lâu bền trong hệ thống mỹ học và đời sống văn hóa Nhật Bản. Trải qua từng giai đoạn lịch sử, aware có quá trình biến nổi về nội dung và hình thức. Cho đến nay, khái niệm aware không phải là mỹ cảm đương đại nhưng những đặc tính của mỹ cảm vẫn còn lưu giữ trong dạng thức mới kawaii. Từ đó cho thấy, người Nhật luôn đề cao việc gìn giữ bản sắc xúc cảm thẩm mỹ truyền thống trong bối cảnh xã hội mới.

_______________

1. Lauren Prusinski, Wabisabi, Mono no Aware, and Ma: Trace of Aesthetics through History, Valparaiso   University, Indiana, 2013. Nguồn: scholar.valpo.edu.

2. Michele F.Marra, A History of Modern Japanese, Hawaii University, the USA, 2001.

3. Hà Văn Lưỡng, Những sắc thái cảm thức trong thơ Nhật Bản, Tạp chí Sông Hương, số 195, 2009, tr.22-27.

4. Bradley Park, Buddish and Japansese Aesthetics, 2005. Nguồn: columbia.edu.

5. Haruo Shirane, Early morden Japanese Literature: An Anthology 1600-1900, Clumbia University Press, the USA, 2013. Nguồn: jstor.org.

6. Vũ Thị Trang Nhung, Tìm hiểu Phật tính trong một số nhân vật nữ của Kawabata, Báo cáo khoa học, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2003, tr.23-31.

7. Huỳnh Quán Chi, Chất thiền trong sáng tác của Kawabata Yasunari (Nhật Bản) và Nguyễn Xuân Khánh (Việt Nam), Nguyệt san Giác ngộ, 2014. Nguồn: giacngo.vn.

8. Mitsuyoshi Numano, Lịch sử và đặc trưng của văn học Nhật Bản – từ mono no aware đến kawaii, Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản, Hà Nội, 2009.

 

Nguồn : Tạp chí VHNT số 409, tháng 7 – 2018

Tác giả : HOÀNG THỊ MỸ NHỊ

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *