Vấn đề dân tộc qua văn kiện đại hội đảng lần thứ xii

Vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc là những nội dung quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với các quốc gia trên thế giới và Việt Nam. Giải quyết những vấn đề có liên quan đến dân tộc ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước và uy tín, vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Chính vì vậy, việc nhận thức đúng đắn, linh hoạt vấn đề dân tộc cũng như thực hiện đúng chính sách dân tộc là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Điều này chẳng những góp phần xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc vững mạnh mà còn nâng cao sức mạnh quốc phòng, an ninh của đất nước.


Khái niệm dân tộc được rất nhiều các nhà khoa học nghiên cứu, bàn luận, và cho đến nay vẫn còn tồn tại những ý kiến khác nhau. Theo cách nhìn nhận chung nhất, dân tộc thường được hiểu theo hai nghĩa rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, dân tộc là quốc gia – dân tộc, chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành dân một nước, có lãnh thổ quốc gia, quốc ngữ chung và nền kinh tế, văn hóa thống nhất gắn bó với nhau bởi các lợi ích chính trị, kinh tế, văn hóa. Theo nghĩa hẹp, dân tộc là tộc người, chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, phương thức sinh hoạt kinh tế chung, văn hóa và ngôn ngữ riêng, xuất hiện sau bộ tộc. Với nghĩa hẹp, dân tộc – tộc người sẽ là một bộ phận của dân tộc – quốc gia.

Nghiên cứu vấn đề dân tộc, thực chất là nghiên cứu và giải quyết mối quan hệ giữa các dân tộc (quốc gia) với nhau, các dân tộc (tộc người) với nhau và mối quan hệ giữa dân tộc – quốc gia và tộc người. Bài viết này đề cập đến quan điểm của Đại hội XII về vấn đề dân tộc (tộc người) trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Trên thực tế hiện nay, ở những quốc gia đa dân tộc (tộc người) luôn có sự phát triển không đồng đều, chênh lệch về kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các tộc người. Do đó, muốn phát triển ổn định và bền vững, các quốc gia đa dân tộc phải quan tâm đến chính sách dân tộc.

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc (tộc người), gồm 54 dân tộc anh em. Trong đó, dân tộc Kinh chiếm 86% dân số, được gọi là dân tộc đa số. 53 dân tộc còn lại chiếm 14% dân số, được gọi là các dân tộc thiểu số, cư trú chủ yếu tập trung ở những vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Quán triệt những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc, ngay từ đầu Hồ Chí Minh đã đề ra những định hướng chiến lược về chính sách dân tộc ở Việt Nam, đó là đoàn kết, bình đẳng, tương trợ. Hồ Chí Minh đã nói: “Nước ta là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ…” (1). Kế thừa, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, đoàn kết các dân tộc, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, nghị định để định hướng các địa phương thực hiện tốt chính sách dân tộc, công tác dân tộc.

Có thể khẳng định, chính sách dân tộc của Đảng ta luôn được quán triệt và triển khai thực hiện nhất quán trong mọi thời kỳ. Đại hội Đảng lần thứ IV xác định: Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong tất cả các văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới đều xác định vị trí của quan trọng của vấn đề dân tộc.

Hội nghị Trung ương 7 khóa IX đã ra nghị quyết chuyên đề về công tác dân tộc. Nghị quyết chỉ rõ: Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xem vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong cách mạng nước ta. Đại hội X tiếp tục xác định đó là vấn đề “có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta” (2). Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta đã đề ra các chủ trương, chính sách dân tộc, với nội dung cơ bản: bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển. Đây là luận điểm rất quan trọng, thể hiện tầm nhìn chiến lược, tư duy đổi mới trong bối cảnh quốc gia và quốc tế của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới.

Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam chủ yếu sống tại miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới nên đời sống còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn cả về vật chất và tinh thần. Tình trạng trên không những làm cho dân tộc thiểu số khó vươn lên hòa nhập cùng với sự phát triển chung của cả nước, mà còn tạo ra khoảng cách phát triển giữa các dân tộc, tiềm ẩn những yếu tố có thể gây mất ổn định chính trị, xã hội, nhất là khi bị các thế lực thù địch lợi dụng. Do đó, Đảng ta luôn coi trọng vấn đề dân tộc, coi việc giải quyết vấn đề dân tộc vừa là vấn đề giai cấp, miền núi, biên cương, an ninh quốc gia và chủ quyền lãnh thổ, vừa là vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Bài học của nhiều nước trên thế giới những năm cuối TK XX cho thấy nếu coi nhẹ và không xác định đúng vị trí vấn đề dân tộc trong chiến lược phát triển quốc gia thì tất yếu dẫn đến xung đột dân tộc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, ảnh hưởng đến sự tồn vong quốc gia.

Về vấn đề dân tộc, trên cơ sở tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới, Đại hội XII tiếp tục khẳng định: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta”(3). Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng, bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đoàn kết các dân tộc luôn là một bộ phận quan trọng trong đại đoàn kết toàn dân tộc

Về mặt khái niệm, đại đoàn kết toàn dân tộc được hiểu là đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, giai cấp, dân tộc, tôn giáo…, bao gồm cả bộ phận định cư ở nước ngoài. Đoàn kết các dân tộc là đoàn kết các thành phần dân tộc trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam. Mục tiêu của đoàn kết các dân tộc trong giai đoạn mới là nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đại hội XII khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực, nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc” (4).

Đại hội XII cũng khẳng định, muốn xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải: “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích của quốc gia – dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết dân tộc” (5).

Đại hội XII cũng yêu cầu: “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, đảm bảo các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc giúp cùng nhau phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung” (6).

So với Đại hội XI, điểm mới của Đại hội XII là: “phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân”; “tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia – dân tộc”.

Để thực hiện được phương châm trên, Văn kiện Đại hội XII đã kế thừa những nhiệm vụ, giải pháp của Đại hội XI, có bổ sung một số nhiệm vụ, giải pháp mới. Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc. Hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước. Khắc phục những hạn chế, bảo đảm tác dụng, hiệu quả thực chất hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp uỷ đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân, tôn trọng, lắng nghe những ý kiến khác; có hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; trân trọng, tôn vinh những đóng góp, cống hiến của nhân dân.

Giải quyết vấn đề dân tộc về thực chất là giải quyết các mối quan hệ dân tộc, suy cho đến cùng là quan hệ lợi ích giữa các dân tộc

Các dân tộc tại Việt Nam cùng chung sống đan xen trên một lãnh thổ quốc gia thống nhất. Tính chất cư trú đó đã tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc tăng cường hiểu biết, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống đoàn kết các dân tộc ngày càng được củng cố và phát triển, trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Về văn hóa, mỗi một dân tộc có một bản sắc riêng (ngôn ngữ, phong tục, tập quán, trang phục…), góp phần làm phong phú, đa dạng nền văn hóa Việt Nam thống nhất. Bản sắc văn hóa của các dân tộc đều được chú trọng bảo tồn và phát triển trong quá trình giao lưu, hội nhập chung của cả nước. Về lãnh thổ cư trú, đa số các dân tộc thiểu số ở nước ta sống chủ yếu ở miền núi, vùng sâu, vùng xa và có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng. Do đó, họ cũng tích cực tham gia vào việc bảo vệ lợi ích kinh tế và chủ quyền an ninh biên giới quốc gia.

Về kinh tế – xã hội, các dân tộc có trình độ phát triển không đồng đều. Một số dân tộc ở đồng bằng có trình độ phát triển kinh tế – xã hội tương đối cao, nhưng còn nhiều dân tộc ở khu vực vùng sâu và núi cao vẫn còn trong tình trạng lạc hậu, chậm phát triển, mức sống thấp, tỷ lệ đói nghèo cao, chậm phát triển hơn so với dân tộc đa số. Một số dân tộc vẫn còn sống tự cung tự cấp, du canh du cư. Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng không đồng đều về kinh tế – xã hội, chủ yếu là điều kiện địa lý, tự nhiên khắc nghiệt ở địa bàn cư trú của đồng bào dân tộc và do lịch sử để lại. Những chênh lệch đó đã gây ra rất nhiều khó khăn cho việc thực hiện chính sách đoàn kết giữa các dân tộc.

Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc giải quyết hài hòa các quan hệ dân tộc, xây dựng các nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc. Trong các văn kiện Đại hội Đảng từ lần thứ II đến lần thứ V đều nhấn mạnh: đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc. Từ Đại hội VI trở đi, các nguyên tắc này đã được xác định là đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau. Và đến Đại hội XI là: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh” (7). Đại hội XII tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết quan hệ hài hòa giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển…” (8). Việc thực hiện nguyên tắc cơ bản của các dân tộc, chính là giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các dân tộc.

Bình đẳng giữa các dân tộc là nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc

Các dân tộc không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển cao hay thấp đều ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc được bảo đảm bằng pháp luật. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, trước hết là về chính trị, chống mọi biểu hiện chia rẽ kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ti dân tộc… Quyền bình đẳng về kinh tế đảm bảo sự bình đẳng trong quan hệ lợi ích giữa các dân tộc. Nhà nước có trách nhiệm giúp các dân tộc có kinh tế chậm phát triển để cùng đạt trình độ phát triển chung với các dân tộc khác. Bình đẳng về văn hóa, xã hội đảm bảo cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc, làm phong phú, đa dạng nền văn hóa Việt Nam. Do phần lớn các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay có trình độ phát triển thấp, nên bên cạnh việc bảo đảm quyền bình đẳng toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, cần tạo điều kiện thuận lợi để cho họ có cơ hội phát triển bình đẳng với các dân tộc khác. Đại hội XII khẳng định: “Trong xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế – xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa giàu nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững” (9). Như vậy, để thực hiện bình đẳng dân tộc thì phải tiến tới từng bước xóa bỏ khoảng cách giữa các dân tộc, mang lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Giải quyết ngay những vấn đề bức xúc như: tình trạng thiếu lương thực, thiếu nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ, không đủ tư liệu sản xuất, dụng cụ sinh hoạt tối thiểu. Xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Quan tâm tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển chính là thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc.

Nguyên tắc đoàn kết các dân tộc

Đây là nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Nguyên tắc này xuất phát từ truyền thống lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của các dân tộc Việt Nam. Truyền thống đoàn kết được gìn giữ và phát triển trong suốt tiến trình hàng ngàn năm lịch sử, gắn kết các dân tộc chung sức xây dựng tổ quốc Việt Nam thống nhất. Mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết dân tộc chính là nền độc lập, thống nhất của tổ quốc, hạnh phúc, tự do của nhân dân cần phải được xây dựng. Đại hội XII xác định về chính trị: “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng” (10) để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Về kinh tế, là sự phát triển hài hòa các lợi ích (cá nhân, tập thể, cộng đồng, xã hội…) vì sự phát triển chung của đất nước. Về tư tưởng, là chủ nghĩa yêu nước chân chính của mọi tầng lớp nhân dân. Về văn hóa, tín ngưỡng tâm linh là sự hướng thiện, tôn trọng những giá trị văn hóa đạo đức, giữ gìn, phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh, nhớ ơn đối với những người có công với tổ quốc, dân tộc, cộng đồng, tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng. Đoàn kết dân tộc được quán triệt xuyên suốt trong các giai đoạn cách mạng Việt Nam. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các dân tộc đang phát huy truyền thống đoàn kết tốt đẹp, cùng nhau xây dựng đất nước với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và tiến bộ.

Nguyên tắc tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển

Do lịch sử để lại, hiện nay giữa các dân tộc ở nước ta vẫn còn tình trạng phát triển không đều. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển là tất yếu khách quan trong một quốc gia đa dân tộc. Đảng và Nhà nước ta đã coi đây là nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các dân tộc có trình độ phát triển kinh tế – xã hội cao hơn có trách nhiệm giúp đỡ các dân tộc khó khăn hơn. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau không phải chỉ giúp đỡ một chiều, mà ngược lại, chính sự phát triển của dân tộc này là điều kiện để cho dân tộc khác càng phát triển. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển thể hiện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc, nhằm thực hiện đầy đủ quyền bình đẳng và củng cố khối đoàn kết dân tộc.

Như vậy, thực chất của việc giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta là nhằm giải phóng con người thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; thực hiện dân chủ, tự do cho các dân tộc; phát huy truyền thống đoàn kết xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Việc giải quyết đúng hay sai, phù hợp hay không phù hợp những vấn đề dân tộc không chỉ mang tính chính trị – xã hội sâu sắc, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước và uy tín, vị thế quốc gia trên trường quốc tế, mà còn mang tính liên ngành, toàn diện, tác động đến nhiều cấp, nhiều ngành trong hệ thống tổ chức nhà nước, hệ thống chính trị xã hội các cấp từ trung ương đến địa phương. Chính vì vậy, việc nhận thức đúng đắn vấn đề dân tộc cũng như thực hiện đúng chính sách dân tộc là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng, chẳng những góp phần xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc vững mạnh mà còn nâng cao sức mạnh quốc phòng, an ninh của từng địa phương và cả nước. Đại hội XII kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đồng bào ta ở nước ngoài phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, ra sức thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội, mở ra thời kỳ phát triển mới, vẻ vang, tốt đẹp của đất nước, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

_______________

1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.587.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.121.

3, 4, 5, 6, 8, 9, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.164, 158, 159, 164, 164, 135, 36.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.244.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 385, tháng 7-2016

Tác giả : HÀ THỊ DÁNG HƯƠNG

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *