Vị trí, vai trò, nhiệm vụ của nguồn nhân lực ngành văn hóa, thể thao và du lịch

Trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng và toàn diện như hiện nay, phát triển kinh tế, xã hội, trong đó bao gồm cả lĩnh vực VHTTDL là vấn đề luôn được coi trọng. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, phát triển bền vững phải gắn liền với cơ chế đào tạo nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực. Cơ chế phát triển xã hội hoạt động hữu hiệu khi biết kết hợp yếu tố bên trong với yếu tố bên ngoài, phải do con người và vì con người.


1. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực là việc làm cần thiết

Trên thế giới, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học tiếp tục có những bước tiến nhảy vọt, thúc đẩy kinh tế tri thức phát triển, tác động tới tất cả các lĩnh vực, làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống xã hội. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế cuốn hút các quốc gia, dân tộc tham gia trong thế vừa hợp tác vừa cạnh tranh, vừa tạo ra cơ hội, vừa đưa lại nhiều thách thức. Nền kinh tế tri thức phát triển mạnh theo chiều sâu, tác động đến cơ cấu và sự phát triển của kinh tế thế giới, mở ra triển vọng mới cho mỗi quốc gia trong phân công lao động toàn cầu, tùy thuộc vào mức độ hội nhập, trình độ thích ứng của từng nền kinh tế.

Giao lưu, hội nhập quốc tế về văn hóa, xã hội đang diễn ra thuận lợi, nhanh chóng, nhưng cũng là cuộc đấu tranh gay gắt để duy trì tính đa dạng, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Hội nhập có khả năng tạo ra những biến đổi lớn về diện mạo, đặc điểm, loại hình văn hóa nghệ thuật. Vì vậy, các quốc gia đều nhận thức được vai trò, vị trí hàng đầu của giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, đây chính là những nhân tố quan trọng, đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước.

Ở nước ta, sự nghiệp CNH, HĐH có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt. Bối cảnh đó đặt ra nhiệm vụ phải đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, vừa có bản lĩnh chính trị, thấm nhuần bản sắc văn hóa, vừa có năng lực chuyên môn, đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại, đóng vai trò chủ yếu trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm, năng lực của các thế hệ.

Bên cạnh lợi thế khác biệt về tài nguyên cùng các nguồn lực tự tạo khác, sự cạnh tranh giữa các quốc gia suy cho cùng vẫn phụ thuộc vào sức mạnh nguồn nhân lực. Số lượng, chất lượng, cơ cấu nhân lực được cải thiện sẽ phát huy tiềm lực con người, nâng cao hiệu quả công việc, trau dồi năng lực, rèn luyện kỹ năng làm việc, hình thành những tài năng thực sự. Phát triển nguồn nhân lực sẽ giải quyết được hai vấn đề: một là, các nguồn lực ngày càng khan hiếm, môi trường ngày càng suy giảm; hai là, sự bùng nổ dân số gắn liền với gia tăng nhu cầu cá nhân.

2. Vai trò của nguồn nhân lực VHTTDL

CNH, HĐH đất nước và phát triển kinh tế tri thức bao gồm cả quá trình phát triển kinh tế, kỹ thuật, văn hóa, xã hội theo hướng xây dựng phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Để thực hiện tốt quá trình đó, thì nguồn nhân lực phải là nhân tố quyết định. Cần nhận thức một cách sâu sắc, đầy đủ giá trị, ý nghĩa của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa  tinh thần trong xã hội. Phải có sự thay đổi trong cách nhìn, cách nghĩ, cách hành động của con người và coi việc bồi dưỡng phát huy nhân tố con người như một cuộc cách mạng. Hơn nữa, với tính tất yếu khách quan của sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, CNH, HĐH đất nước và cách mạng con người phải được nhận thức là hai mặt thống nhất, không thể tách rời của sự nghiệp xây dựng đó.

Nói đến nguồn nhân lực trong sự nghiệp đổi mới đất nước tức là nói đến chủ thể tham gia vào quá trình CNH, HĐH. Tuy nhiên, nguồn nhân lực ấy không phải là tập hợp giản đơn số lượng các cá nhân, tập thể, mà là sự tổng hợp của chỉnh thể nhân lực hoạt động trong từng lĩnh vực cụ thể, tạo thành sức mạnh tập thể. Nhân lực ngành VHTTDL là tổng hợp những chủ thể hoạt động trong từng lĩnh vực, khối ngành văn hóa nghệ thuật, gia đình, thể dục thể thao, du lịch. Sức mạnh đó bắt nguồn từ những phẩm chất vốn có của mỗi chủ thể, được nhân lên gấp bội trong hoạt động thực tiễn về VHTTDL. Vì vậy, khi nói nguồn nhân lực với tư cách là động lực của quá trình CNH, HĐH là nói đến những phẩm chất tích cực của tổng hợp những chủ thể được bộc lộ trong quá trình phát triển nói chung, thúc đẩy quá trình này vận động, phát triển.

Để xem xét, đánh giá đúng vai trò của nguồn nhân lực VHTTDL, cần đặt nguồn nhân lực trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác và mức độ chi phối của nó đến sự thành bại của quá trình phát triển. Khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghiệp hiện đại phát triển mạnh mẽ thì lao động trình độ cao ngày càng gia tăng, trở thành xu thế phổ biến của nhân loại. Với cách tiếp cận như vậy, vai trò của nguồn lực VHTTDL thể hiện ở tính quyết định, tính vô tận, tính cải biến và tính hoạch định.

Tính quyết định

Các nguồn lực như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chỉ phát huy tác dụng khi có tác động của con người. Còn nguồn nhân lực là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ, ý chí, biết lợi dụng và khai thác các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp, góp phần đẩy mạnh quá trình phát triển. Như vậy, nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực VHTTDL nói riêng là chủ thể, còn các nguồn lực khác là khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của con người và phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người. Chính vì vậy, trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, nguồn nhân lực luôn đóng vai trò quan trọng nhất.

Tính vô tận

Các nguồn lực khác có thể cạn kiệt khi khai thác và không thể khôi phục, trong khi đó, nguồn lực con người với cốt lõi là trí tuệ, văn hóa, là nguồn lực vô tận. Tính vô tận biểu hiện ở khả năng tái sinh, tự sản sinh về mặt sinh học, phát triển không ngừng về chất. Đó là cơ sở làm cho nhận thức, năng lực hoạt động thực tiễn của nguồn nhân lực phát triển như một quá trình vô tận cả về bình diện cộng đồng và nhân loại. Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài nguyên mới, không có sẵn trong tự nhiên. Sự phát triển không ngừng của công cụ kỹ thuật, khoa học công nghệ sản xuất từ thủ công đến cơ khí, từ cơ khí đến tự động hóa  được xã hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao minh chứng cho trình độ của con người.

Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống con người cả về mặt tích cực và tiêu cực, thời cơ, triển vọng luôn đi cùng những thách thức. Bên cạnh đó, tiến trình CNH, HĐH đất nước đòi hỏi nguồn nhân lực không chỉ cần cù, nhiệt thành, mà còn phải có trí tuệ, ý chí, tính năng động, ý thức kỷ luật, bản lĩnh lãnh đạo, nghệ thuật quản lý, kỹ năng kinh doanh…

Tính cải biến

Sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại đang hình thành một nền kinh tế mới là kinh tế tri thức. Khoa học kỹ thuật, công nghệ mới đã làm tăng tốc độ chuyển giao từ nơi nghiên cứu ra thực tế, rút ngắn khoảng cách về không gian, thời gian. Chính việc phát triển vượt bậc đến chóng mặt của khoa học kỹ thuật là tác nhân phá vỡ hàng rào ngăn cách địa giới hành chính và các rào cản khác trong giao dịch của con người trên mọi lĩnh vực. Dự đoán, vào TK XXI, hệ thống thống tin liên lạc cá nhân được coi là mục tiêu cao nhất trong thông tin liên lạc lý tưởng của nhân loại, ảnh hưởng sâu sắc đến phương thức sản xuất và sinh hoạt của loài người, làm cho bất cứ người nào, ở bất kể đâu đều có thể liên lạc với nhau, internet được thay thế bằng evernet (1). Điều này đã đẩy quốc tế hóa  các lĩnh vực của đời sống xã hội lên một thời kỳ mới, thời kỳ toàn cầu hóa  nền kinh tế thế giới, hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện. Bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc con người mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến sự biến đổi thần kỳ.

Tính hoạch định

Kinh nghiệm và thực tiễn cho thấy, sự thành công của quá trình CNH, HĐH phụ thuộc chủ yếu vào phương thức hoạch định đường lối chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nếu nguồn nhân lực hoạch định tốt sẽ làm thay đổi nhiều mặt của đời sống xã hội, góp phần ổn định, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cộng đồng. Đồng thời, sẽ phát triển mối quan hệ kinh tế giữa các ngành trong phạm vi mỗi nước và các nước với nhau; trình độ quản lý kinh tế của nhà nước, khả năng tích luỹ mở rộng sản xuất được nâng cao, nhân tố con người đóng vai trò tối quan trọng trong nền sản xuất, đặc biệt là nền sản xuất hiện đại. Chỉ trên cơ sở hoạch định, thực hiện tốt công cuộc CNH, HĐH mới có khả năng quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện nhân tố con người, tạo điều kiện củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế đối với mọi lĩnh vực.

Vai trò của nguồn nhân lực VHTTDL trong việc bảo tồn, phát huy, phát triển và truyền bá văn hóa ngày càng được khẳng định. Đội ngũ nhân lực, trong đó có cả nhân lực trí thức và lao động trực tiếp phải có trách nhiệm dự báo, sáng tạo, hướng dẫn cộng đồng, làm cho nhân dân không chỉ là đối tượng hưởng thụ văn hóa, mà còn trở thành lực lượng sáng tạo văn hóa. Trong lĩnh vực sản xuất, đội ngũ nhân lực ngành VHTTDL phải là lực lượng xung kích, giúp đỡ, hướng dẫn nhân dân ứng dụng khoa học, công nghệ vào công việc; bám sát đời sống thực tiễn. Đồng thời, tích cực tham gia xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao trí tuệ, thể chất cho nhân dân, tạo điều kiện hội nhập, góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.

3. Nhiệm vụ của nguồn nhân lực VHTTDL

Nhân lực ngành VHTTDL là một bộ phận tích cực trong sự nghiệp đổi mới, có nhiệm vụ ngày càng quan trọng trong sáng tạo văn hóa, giữ vững nền tảng tinh thần của xã hội, phát huy bản sắc dân tộc trong quá trình hội nhập; trong phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế xã hội như lực lượng sản xuất trực tiếp; trong lãnh đạo, quản lý đất nước, điều hành sự nghiệp CNH, HĐH.

Trong sáng tạo văn hóa, giữ vững nền tảng tinh thần của xã hội, phát huy bản sắc dân tộc

Trong công cuộc CNH, HĐH đất nước, cùng bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, nhân lực ngành VHTTDL đóng vai trò tiên phong trong sáng tạo văn hóa, giữ vững nền tảng tinh thần của xã hội, phát huy bản sắc dân tộc. Bản thân các cá nhân và đội ngũ nhân lực của ngành vừa là chủ thể có khả năng tích hợp, phát huy toàn bộ sức mạnh nội sinh văn hóa dân tộc, vừa là khách thể tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại.

Những người làm việc trong lĩnh vực VHTTDL có vai trò giữ hồn cốt dân tộc, bảo tồn, phát huy, quảng bá những giá trị văn hóa độc đáo đến mọi miền đất nước và ra thế giới. Đội ngũ nhân lực ngành thể hiện rõ vị trí quan trọng của mình trong sáng tạo văn hóa tư tưởng, văn hóa đạo đức, văn hóa thẩm mỹ, xây dựng con người Việt Nam giàu trí năng, trí tuệ, khỏe mạnh về thể chất. Đặc biệt, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng cuốn theo những thay đổi trong cuộc sống đời thường, việc nghiên cứu, đề xuất những thiết chế, mô hình văn hóa mới ở các khu công nghiệp, đô thị lớn của đất nước đang là vấn đề cấp thiết, đồng thời cần đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng gia đình văn hóa trên phạm vi toàn quốc.

Cốt lõi của chiến lược phát triển kinh tế, xã hội là sự phát triển bền vững về môi trường, kinh tế, xã hội. Cả 3 trụ cột này đều được xây dựng trên nền tảng văn hóa và sự phát triển bền vững phụ thuộc vào nhân tố chính của các hoạt động xã hội – đó chính là nguồn nhân lực.

Trong phát triển lực lượng sản xuất

Trong giai đoạn hiện nay, vốn nhân lực có tri thức cao, tay nghề giỏi trở thành nhân tố quan trọng, quyết định đến sự phát triển của kinh doanh sản xuất. Muốn vậy, nhân lực ngành VHTTDL phải sửa đổi lối làm việc, áp dụng công nghệ mới, nâng cao tay nghề của công chức, viên chức, người lao động trong ngành, tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động VHTTDL với phát triển kinh tế, xã hội, giữa nghiên cứu khoa học với sản xuất, giữa trí thức với công nhân và nông dân có tri thức cao.

Đội ngũ nhân lực của ngành VHTTDL, đặc biệt là nhân lực trong khối doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp có thu, phải là lực lượng sản xuất nòng cốt trong toàn bộ cơ cấu của hệ thống đa ngành. Một mặt cần coi trọng vai trò của nhân lực làm việc tầm vĩ mô, xây dựng, hoạch định chiến lược phát triển; mặt khác không xem nhẹ vai trò của người lao động làm việc trực tiếp trong hoạt động sản xuất, sáng tạo. Nguồn nhân lực trí tuệ cao, có tay nghề, kỹ năng tốt có vai trò quan trọng trong sản xuất, sáng tạo, truyền bá các sản phẩm có giá trị và trở thành lực lượng không thể thiếu trong xã hội hiện đại.

CNH, HĐH đất nước phải xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc, phát triển con người Việt Nam toàn diện, lấy đó làm động lực xây dựng xã hội công bằng, nhân ái; bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Chúng ta cần tăng trưởng nguồn lực con người trong mọi hoạt động văn hóa, xã hội, gắn liền với việc kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc. Trên cơ sở đó, khi phát triển nền kinh tế hàng hóa  theo cơ chế thị trường, chúng ta có thể tránh được nguy cơ tha hóa , xa rời những giá trị truyền thống, đánh mất bản sắc dân tộc.

Trong lãnh đạo và quản lý đất nước, điều hành sự nghiệp CNH, HĐH

 Vai trò của nguồn nhân lực thể hiện rõ nhất trong quá trình quản lý nhà nước về VHTTDL, trong sự nghiệp nghiên cứu, đào tạo, quản trị doanh nghiệp và hoạt động của đơn vị sự nghiệp có thu. Cán bộ công chức, viên chức từ trung ương đến địa phương bao gồm nhân lực làm công tác đảng, cán bộ hành chính, cán bộ đoàn thể, cán bộ lãnh đạo các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong hoạt động quản lý hành chính, hoạt động sự nghiệp và kinh doanh VHTTDL.

Trong thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức, nếu không có lực lượng lao động chất lượng cao, đội ngũ quản lý giỏi thì không thể phát triển kinh tế hiệu quả, bền vững. Vì vậy, đòi hỏi phải tiến hành cải cách đồng bộ và hệ thống từ đào tạo, sử dụng đến bồi dưỡng nguồn nhân lực với nhiều phương thức khác nhau. Lấy tính sáng tạo và hiệu quả công việc làm thước đo trình độ. Xây dựng đội ngũ giáo viên đạt chuẩn, hệ thống giáo trình, phương pháp giảng dạy phù hợp, tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa trường học, viện, trung tâm nghiên cứu khoa học, công nghệ với các doanh nghiệp.

_______________

1. Dự báo TK XXI, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1998.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 386, tháng 8-2016

Tác giả : LÊ THỊ THU HIỀN

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *