Quản lý mạng xã hội trên hệ thống phương tiện truyền thông mới ở việt nam


Cùng với sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin, internet nói chung và mạng xã hội (MXH) nói riêng ngày càng phát triển trên phạm vi toàn cầu như một xu thế tất yếu khách quan. Sau hơn 20 năm ra đời, MXH đã trở thành một công cụ đặc biệt đáp ứng vô cùng hữu hiệu nhu cầu của con người trong việc chia sẻ thông tin, kết nối bạn bè mà không còn những trở ngại về khoảng cách thời gian, không gian địa lý, ngôn ngữ, văn hóa, dân tộc giữa các quốc gia, đang trở nên phổ biến và ngày càng thu hút lượng người dùng đông đảo trên khắp thế giới. Ở Việt Nam, MXH được hiểu là “hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng người sử dụng mạng cách các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau” (1), đã có những ảnh hưởng, tác động mạnh mẽ tới đời sống xã hội, văn hóa và lối sống của con người Việt Nam theo cả hai chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực. Trước thực tế này, việc kiểm soát, quản lý MXH trên các phương tiện truyền thông ở Việt Nam hiện nay đã trở thành một yêu cầu cấp thiết.

Đồng hành với quá trình phát triển của các trang MXH ở Việt Nam là sự bùng nổ thông tin đáp ứng nhu cầu tiếp nhận thông tin ngày càng phong phú, đa dạng. Nhờ những tính năng ưu việt, các trang MXH ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng lượng thông tin mà hàng ngày con người tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ; có tầm ảnh hưởng lớn đến chiều hướng, tính chất của dư luận xã hội không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn cả trên thế giới; có sự tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành nhận thức, niềm tin và hành động của xã hội.

1. Quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước trong việc quản lý MXH

Quan điểm chỉ đạo của Đảng

Trong vòng gần 10 năm trở lại đây, việc tham gia các trang MXH như Facebook, YouTube, Google, Twitter, Zalo, Zing.me… của thanh, thiếu niên Việt Nam với nhiều mục đích khác nhau ngày càng trở nên phổ biến. Bên cạnh việc giao lưu, kết nối bạn bè, giải trí, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin thì hệ lụy mang lại do những tác động tiêu cực từ các trang MXH tới giới trẻ cũng không hề nhỏ. Trong đó, vấn đề quan tâm nhất là việc một số MXH đã để xảy ra sai phạm do các thành viên chia sẻ, trao đổi các nội dung vi phạm về thuần phong mỹ tục, dung tục và phản cảm. Nhiều thông tin xấu, độc hại đã tác động trực tiếp, ảnh hưởng đến bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng, đạo đức, lối sống, mục tiêu, lý tưởng của một bộ phận thanh, thiếu niên. Đặc biệt, với lợi thế có thể thu hút lượng người sử dụng đông đảo, thông tin truyền tải không hạn chế mà lại lan truyền sâu rộng, MXH được xem như một môi trường hết sức thuận lợi để các thế lực phản động thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với thanh, thiếu niên bằng cách cho đăng tải, chia sẻ, lan truyền các bài viết, bình luận có nội dung không lành mạnh, tuyên truyền quan điểm chính trị đối lập với Đảng và Nhà nước Việt Nam. Hệ quả là một bộ phận thanh, thiếu niên do tuổi đời còn trẻ, nhạy bén với cái mới, bản lĩnh, tư tưởng lại đang trong quá trình hoàn thiện nên đã bị cuốn theo những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù, bị lung lay ý chí, niềm tin, từng bước dẫn đến tha hóa về quan điểm, đạo đức và lối sống. Với tính năng cho phép việc đăng tải và chia sẻ thông tin hầu như không gặp phải bất cứ trở ngại nào cùng với tâm lý nông nổi, thích được chú ý thông qua việc câu like đã khiến cho một bộ phận không nhỏ thanh, thiếu niên dùng MXH để đăng tải những thông tin giật gân, gây sốc, phản cảm đối với cộng đồng dư luận. Trong nhiều trường hợp sử dụng MXH khiến cho thanh, thiếu niên vô tình có những hành vi vi phạm pháp luật, đó là khi sử dụng MXH mà chưa có nhận thức đầy đủ, ý thức cảnh giác trong việc đăng tải, chia sẻ các thông tin, hình ảnh, video clip của bản thân hay người khác… nhiều thanh, thiếu niên đã trở thành đối tượng bị dụ dỗ, lôi kéo dẫn đến vi phạm pháp luật.

Trước bối cảnh nói trên, vấn đề phòng, chống hiệu quả tác động tiêu cực của các trang mạng xã hội đối với thanh, thiếu niên được xem như một yêu cầu cấp thiết song cũng là công việc hết sức phức tạp, gian nan. Ứng phó với tình hình thực tế, thời gian vừa qua, Đảng ta đã có một số quan điểm chỉ đạo quản lý mạng xã hội trên các phương tiện truyền thông mới.

Một là, Đảng lãnh đạo truyền thông đại chúng, trong đó bao gồm các phương tiện truyền thông mới. Đây là nguyên tắc hàng đầu, điều kiện quyết định đảm bảo hiệu quả và sức mạnh của các trang MXH và các phương tiện truyền thông trong công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa, lối sống của con người Việt Nam.

Hai là, phát triển đi đôi với quản lý phương tiện truyền thông là quan điểm chỉ đạo quan trọng. Theo đó, cần phải nhìn nhận rằng phát triển không ngừng hệ thống các phương tiện truyền thông là một yêu cầu tất yếu khách quan trong sự phát triển kinh tế xã hội, nhất là trong điều kiện hiện nay chúng ta đang thực hiện chủ trương hội nhập sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực với các nước trên thế giới. Việc phát triển các phương tiện truyền thông chính là nhằm đáp ứng một cách kịp thời và đầy đủ thông tin, đồng thời góp phần phục vụ hiệu quả cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước trong tình hình mới nhiều biến động hiện nay.

Ba là, cần phải khắc phục xu hướng thương mại hóa và các tiêu cực trong hệ thống các phương tiện truyền thông. Nguyên tắc này xuất phát từ thực tế sản phẩm của các phương tiện truyền thông là loại sản phẩm hàng hóa đặc biệt mang ý nghĩa chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục và gắn với nhận thức, tư tưởng của đối tượng tiếp nhận chủ yếu là thanh, thiếu niên. Do vậy thương mại hóa các phương tiện truyền thông như MXH dễ dẫn đến việc hạ thấp giá trị, xem nhẹ vai trò quan trọng của hệ thống truyền thông trong sự phát triển và tiến bộ xã hội. Điều này có thể gây ra hàng loạt các hiện tượng tiêu cực như đã đề cập tới ở trên.

Một số chính sách của Nhà nước

Theo Nghị định số 174/2013/NĐ-CP của Chính phủ, các trang thông tin điện tử hoạt động không có giấy phép hoặc giấy phép hết hạn sẽ bị phạt tiền từ 10 triệu đến 20 triệu đồng. Các MXH hoạt động không có giấy phép hoặc giấy phép hết hạn sẽ bị phạt tiền từ 20 triệu đến 30 triệu đồng. Điều 64 và 65 của Nghị định còn có quy định trang thông tin điện tử, trang thông tin điện tử tổng hợp và MXH không có hệ thống máy chủ đặt ở Việt Nam đáp ứng việc thanh tra, kiểm tra, cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc giải quyết khiếu nại của khách hàng đối với việc cung cấp dịch vụ theo quy định của Bộ TTTT sẽ bị phạt tiền từ 20 đến 30 triệu đồng. Ngoài ra, trên MXH, các hành vi tuyên truyền phá hoại chống phá Nhà nước CHXHCN Việt Nam, phá hoại khối đại đoàn kết các dân tộc; tuyên truyền kích động chiến tranh xâm lược gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước; kích động bạo lực; truyền bá tư tưởng phản động; xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận thành tựu của cách mạng; xúc phạm dân tộc, danh nhân anh hùng dân tộc mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ bị phạt tiền từ 70 đến 100 triệu đồng (2). Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15-7-2013 về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng thay thế cho Nghị định số 97/2008/NĐ-CP, một Nghị định có tầm quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý, tạo động lực thúc đẩy phát triển internet, cung cấp dịch vụ trên internet và trên các trang mạng xã hội ở nước ta hiện nay (3). Cho đến thời điểm này, các tiêu chí về thông tin xấu độc cũng đã được quy định cụ thể tại khoản 1 điều 5 của Nghị định số 72/2013/NĐ-CP (4) và Thông tư số 38/2016/TT-BTTTT của Bộ TTTT (5). Ngoài ra, Bộ TTTT cũng đã ban hành nhiều văn bản về quản lý nhà nước đối với hoạt động internet và MXH. Bộ cũng đã có sự chỉ đạo Cục An toàn thông tin và các nhà mạng phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng, Bộ CA dùng các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ truy tìm những đối tượng lợi dụng mạng internet để phát tán thông tin giả mạo, bịa đặt, sai sự thật để xử lý theo quy định tại điểm e, khoản 1, điều 5 của Nghị định số 72/2013/NĐ-CP (6). Bộ TTTT đã làm việc với đại diện cấp cao của hai MXH lớn nhất thế giới là YouTube và Facebook trong việc yêu cầu họ gỡ bỏ những thông tin xấu độc tồn tại trên hai nền tảng này. Kết quả đạt được tuy chưa đạt được mức độ như các nhà quản lý mong muốn nhưng họ cũng đã cố gắng phối hợp ở mức khá tốt bằng việc gỡ hàng ngàn video và tài khoản giả mạo những chính khách, lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước Việt Nam có nội dung xấu độc, xuyên tạc, gây hại.

Một trong những văn bản quy phạm đang được dư luận mong chờ trong thời gian tới là Luật An ninh mạng sẽ được trình tại kỳ họp Quốc hội thứ 5 dự kiến diễn ra tháng 5-2018 với những quy định cụ thể và chi tiết về nguyên tắc, biện pháp, nội dung công tác an ninh mạng, hoạt động bảo đảm triển khai công tác an ninh mạng và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tới hoạt động quản lý, cung cấp, sử dụng không gian mạng và bảo vệ an ninh mạng của Việt Nam. Đây được xem là văn bản hết sức cần thiết trong bối cảnh hội nhập quốc tế, phát triển công nghệ thông tin và đặc biệt là cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư cùng với thực trạng đang diễn ra trên không gian mạng đã và đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết trong việc bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và vấn đề xây dựng, phát triển văn hóa, lối sống của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

2. Một số vấn đề đặt ra trong công tác quản lý MXH ở Việt Nam hiện nay

Có thể nhận định, cho đến thời điểm này, chúng ta đã có những biện pháp quản lý tương đối mạnh và cụ thể, tuy nhiên công tác quản lý MXH trên các phương tiện truyền thông ở nước ta vẫn đang gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quản lý lĩnh vực này cũng đòi hỏi phải được bổ sung, điều chỉnh thường xuyên cho phù hợp với sự phát triển và yêu cầu quản lý. Ðến nay, chúng ta đã có một hệ thống văn bản điều chỉnh các hoạt động liên quan đến việc cung cấp, sử dụng thông tin trên MXH được bổ sung, hoàn thiện đáng kể. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản về quản lý nội dung thông tin điện tử trên MXH vẫn chưa đồng bộ, thiếu các quy định cụ thể để phân định rõ ràng, chính xác các hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy, việc xây dựng quy định, chính sách hiện thời vẫn chưa theo kịp sự phát triển của các phương tiện truyền thông. Về cơ bản, các văn bản này đều hướng đến mục đích tạo điều kiện cho việc quản lý của các cơ quan chức năng nên thường có xu hướng đặt internet và MXH trong lối tư duy cho rằng chúng mang nhiều tác hại, tiềm ẩn nhiều nguy cơ chứ chưa thực sự nhìn thấy những lợi ích để từ đó khai thác các tính năng hữu ích, khuyến khích, hướng dẫn những người sử dụng Internet và mạng xã hội theo chiều hướng lành mạnh và hiệu quả. Đó là một trong những lý do dẫn đến việc khi triển khai vào thực tiễn, một số quan điểm chỉ đạo, chính sách quản lý đã gặp không ít khó khăn, thậm chí là không phù hợp và không khả thi.

Bên cạnh đó, một trong những vấn đề khó khăn trong việc áp dụng chính sách pháp luật là tính chất không biên giới của mạng xã hội. Chẳng hạn, một hành vi trên mạng xã hội có thể vi phạm pháp luật ở nước này nhưng rất có thể lại được coi là hợp pháp ở một quốc gia khác, vì vậy việc xử lý vi phạm, yêu cầu gỡ bỏ những thông tin sai trái trên môi trường mạng cũng bị giới hạn, chỉ có tác dụng nhất định khi người vi phạm, hành vi vi phạm xảy ra ở một quốc gia nhất định mà thôi. Được biết, hiện việc xác định và xử lý công khai nội dung sai phạm chủ yếu do Bộ TTTT chủ trì trong đó chủ yếu dựa vào các quy định định tính, chưa cụ thể về hành vi sai phạm của văn bản quy phạm pháp luật hiện hành và cũng chưa có được sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành có liên quan. Tình trạng này tất yếu dẫn đến việc nhà quản lý có thể đưa ra một số quyết định mang tính chủ quan, áp đặt, và trong tình hình đó, nhiều trường hợp đã bị lợi dụng kích động với những thông tin nhạy cảm về chính trị, đối ngoại mà dư luận quốc tế đang quan tâm gây khó khăn cho việc tạo sự đồng thuận trong dư luận xã hội và tạo ra áp lực lớn cho các cơ quan chức năng. Vì vậy, trong công tác thực thi, các đơn vị quản lý vấp phải khó khăn khi quyết định hình thức xử lý, thậm chí nhiều trường hợp không dám công khai biện pháp xử lý do có yếu tố nhạy cảm. Hệ quả là nhiều biện pháp xử lý chưa đủ tính răn đe đối với các đối tượng vi phạm cũng như nhóm đối tượng có nguy cơ vi phạm. Nhược điểm sau cùng cần phải nhìn nhận là công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý sai phạm tuy đã được tăng cường nhưng năng lực của bộ máy thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm còn hạn chế. Chúng ta còn rất thiếu về số lượng thanh tra chuyên ngành; năng lực kỹ thuật xử lý, ngăn chặn thông tin sai phạm từ các máy chủ đặt tại nước ngoài còn nhiều bất cập, chế tài xử lý chưa đủ mạnh, chưa đạt được hiệu quả răn đe cần thiết.

Để khắc phục những bất cập trong công tác quản lý và phát huy vai trò của MXH trên các phương tiện truyền thông, qua đó đóng góp vào quá trình xây dựng và phát triển văn hóa, lối sống của con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, trong thời gian tới các quan điểm chỉ đạo của Đảng cần phải được cụ thể hóa và kịp thời hơn nữa, các cấp ủy, chính quyền và các cơ quan chức năng quán triệt, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc mà Đảng đã đề ra trong công tác lãnh đạo, quản lý hệ thống các phương tiện truyền thông ở nước ta. Đặc biệt, trong bối cảnh thông tin toàn cầu đang hết sức đa dạng, phức tạp, khó quản lý có thể ảnh hưởng sâu sắc tới văn hóa, lối sống của con người Việt Nam như hiện nay, để hạn chế những tiêu cực, nhất là luồng thông tin xấu độc hại trên mạng xã hội, có lẽ chúng ta nên học tập kinh nghiệm của thế giới với sự tập trung vào một số nhóm giải pháp cơ bản:

Thứ nhất, quản lý báo chí trên môi trường mạng, khoa học công nghệ. Các cơ quan quản lý cần phải tập trung nhiều hơn vào loại hình báo chí này, bởi thực tế số lượng người đọc báo in hiện đang có xu hướng giảm mạnh trong khi số lượng người theo dõi thông tin, tin tức qua mạng có thể gấp nhiều lần thì chúng ta lại chưa có sự quan tâm chưa đúng mức. Cũng theo hướng giải quyết này, báo chí truyền thống cần phải bám sát đời sống, những gì báo chí chính thống không theo kịp thì mạng xã hội sẽ bổ sung. Bám sát MXH vừa ngăn chặn được thông tin xấu, đồng thời khai thác những mặt tốt được xem như định hướng để chỉ đạo, quản lý dẫn dắt đất nước tiến bộ nhanh hơn trong một môi trường cởi mở, đa dạng, phong phú mang tính tất yếu khách quan như hiện nay.

Thứ hai, hệ thống pháp luật phải cần hoàn chỉnh hơn nữa, đặc biệt cần lưu ý tới khía cạnh luật pháp phải tạo ra khung pháp lý ủng hộ người tốt, thông tin tốt và ngược lại, cũng phải răn đe người không tốt, xử lý người xấu đưa tin xấu, độc hại. Cần phải đề ra cơ chế kiểm soát thông tin, loại bỏ các nội dung xuyên tạc, gây bất an trong dư luận trên MXH trong sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các bên có liên quan.

Thứ ba, là nâng cao dân trí để phòng vệ, tự miễn nhiễm trước MXH. Việc tìm hiểu và lựa chọn tiếp nhận thông tin trên mạng sẽ phụ thuộc vào trình độ, nhận thức khác nhau của mỗi người, do vậy nâng cao dân trí có lẽ sẽ là cách phòng vệ tốt nhất. Trong nhóm giải pháp này cần đặc biệt quan tâm tới giới trẻ trong việc định hướng cho họ tự trang bị các kiến thức, kinh nghiệm sống để hình thành khả năng phân tích, phán đoán trước các thông tin tràn lan trên MXH. Đó cũng là hành trang để mỗi người sử dụng internet và MXH tránh được sự cố vô tình vi phạm pháp luật. Để làm được điều này cần có tác động và hợp tác từ hai phía: phía cơ quan quản lý, Bộ TTTT cần thực hiện truyền thông tốt tới người sử dụng về nội dung của Luật; phía người sử dụng cần cân nhắc khi chia sẻ thông tin lên mạng xã hội, đặc biệt là các thông tin không phải do tự bản thân đưa ra thì cần kiểm tra kỹ lưỡng nguồn gốc thông tin.

Như bất cứ thành tựu khoa học kỹ thuật nào, MXH trên hệ thống các phương tiện truyền thông được sáng tạo và phát triển nhằm phục vụ cho lợi ích của xã hội. Cho dù cách sử dụng nó như thế nào sẽ quyết định việc đem lại những tác động tích cực hay tiêu cực tới văn hóa và lối sống của con người. Không thể phủ phận những mặt tích cực mà MXH đã mang lại khi phục vụ cho tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế quản lý mạng xã hội trên các phương tiện truyền thông là hết sức cần thiết bởi đó là cơ sở pháp lý để định hướng, hướng dẫn người dùng đặc biệt là bộ phận thanh, thiếu niên sử dụng MXH một cách hữu ích, an toàn và đúng quy định của pháp luật. Cơ chế quản lý MXH càng minh bạch, cụ thể thì việc thực thi quyền sử dụng của thanh, thiếu niên sẽ càng có hiệu quả, đảm bảo vừa thỏa mãn được nhu cầu của họ về giải trí, học tập, chia sẻ thông tin, kết bạn vừa tránh được những tác động xấu của các thế lực thù địch lợi dụng MXH. Do đó, để có được một cơ chế quản lý hoàn thiện thì đòi hỏi trước hết chính là những quan điểm chỉ đạo và chính sách đúng đắn, kịp thời của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện tại và sắp tới để có thể phát huy được sức mạnh, lợi thế của các MXH nhằm đóng góp tích cực và hiệu quả vào công cuộc phát triển kinh tế , xã hội, xây dựng hệ thống chính trị, đảm bảo quốc phòng, an ninh của đất nước nói chung và xây dựng, phát triển văn hóa, lối sống con người Việt Nam nói riêng.

____________

1, 3, 4, 6. Nghị định số 72/ 2013/NB-CP ngày 15-7 -2013 và Quản lý, cung cấp, sử dụng internet và thông tin trên mạng.

2. Nghị định số 174/2013/ NĐ – CP về Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện.

5. Thông tin số 38/2016/TT- BTTTT, Quy định chi tiết về việc cung cấp Thông tin công cộng qua biên giới.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 405, tháng 3 – 2018

Tác giả : NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *