Đặc trưng văn hóa tộc người và vấn đề phát triển du lịch vùng tây bắc

Du lịch sinh thái (DLST) là loại hình du lịch xuất hiện muộn, nhằm thay thế cho các loại hình du lịch trước đó, vốn bị phê phán vì những ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường và xã hội. Con người là một phần của hệ sinh thái, vì vậy, cộng đồng địa phương là một phần không thể tách rời của hoạt động DLST. Loại hình du lịch này dựa trên ba yếu tố chính: tự nhiên, cộng đồng bản địa, quy hoạch. Vùng Tây Bắc nước ta hiện đang được chú trọng phát triển loại hình DLST do có những đặc điểm tự nhiên và xã hội phù hợp. Để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, DLST phải dựa vào cộng đồng. Cộng đồng đóng vai trò chủ thể của tài nguyên thiên nhiên, nhân văn, lực lượng lao động chính và là đối tượng xứng đáng được hưởng lợi từ phát triển du lịch. Việc trao quyền quyết định cho cộng đồng địa phương sẽ tăng tính hiệu quả của DLST cũng như đảm bảo sự phát triển lâu dài, bền vững.


         1. Những đặc trưng vùng Tây Bắc với phát triển DLST

         Tây Bắc là vùng núi, cao nguyên hiểm trở có mức độ chia cắt mạnh do hậu quả của quá trình phát triển địa chất kiến tạo. Địa hình Tây Bắc phức tạp, phía đông và đông bắc là dãy núi Hoàng Liên Sơn, phía tây và tây nam là dãy núi sông Mã, nằm giữa hai dãy núi khổng lồ là dải núi đá vôi chạy liên tục từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Lạc Thủy (Hòa Bình). Ở Tây Bắc núi và cao nguyên chiếm 4/5 diện tích lãnh thổ và chạy song song nhau theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, phía cực tây có nhiều mạch núi rẽ theo hướng Đông Bắc. Về phía tây và tây nam của vùng Tây Bắc lại là những ngọn núi trung bình như dãy núi sông Mã dài 500km tỏa rộng sang cả Sầm Nưa (Lào) và lan đến tận Thanh Hóa. Ở đây có nhiều đỉnh cao 1800m như Pu Đen Đinh (1886m), Pu Sam Sao (1897m). Trong khu vực có nhiều nền móng cổ với nhiều đứt gãy nhất là Lai Châu, Điện Biên. Địa hình ở đây khá đồng nhất với mạng lưới xâm thực dày, khe sâu sườn dốc, có xen một số bề mặt bằng phẳng rộng như Mường Nhé. Phía bắc của vùng Tây Bắc, giáp biên giới Việt – Trung là dãy núi Pu Si Lung thuộc địa hình núi cao, đỉnh cao nhất vượt trên 3000m.

         Vùng Tây Bắc có khí hậu nhiệt đới chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa. Do nằm sâu trong lục địa nên ảnh hưởng của mưa bão biển Đông vào mùa hè và của gió mùa đông bắc trong mùa đông ít hơn các nơi khác thuộc khu vực Đông Bắc và đồng bằng Bắc Bộ. Mùa hè có gió mùa tây nam kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9, thời tiết nóng ẩm, mưa nhiều. Mùa đông với gió mùa đông bắc, kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, có thời tiết lạnh, khô và ít mưa. Các tháng 4 và tháng 10 là những tháng giao thời giữa 2 mùa. Đây là nơi duy nhất xuất hiện vành đai khí hậu ôn đới với những ngày nhiệt độ dưới 0oC, có tuyết rơi…

         Tây Bắc có hệ động, thực vật phong phú, đa dạng, phù hợp phát triển DLST. Về hệ thực vật, có diện tích rừng lớn, chủ yếu là rừng lá rộng thường xanh trên núi cao tập trung chủ yếu ở vùng núi cao trên 1.500m. Diện tích chủ yếu của các loại rừng này tập trung trên dãy Hoãng Liên Sơn, các vùng núi cao dọc biên giới Việt Nam – Lào, Việt Nam – Trung Quốc. Qua nghiên cứu, thống kê hệ động vật ở vùng Tây Bắc tương đối phong phú, đa dạng về số lượng và chủng loại. Chính điều kiện tự nhiên đã tạo ra cho vùng Tây Bắc có nhiều tiềm năng cho phát triển du lịch.

         Vùng Tây Bắc còn có hệ thống các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, dự trữ sinh quyển tập trung với mật độ dày đặc, thuận lợi để phát triển DLST. Trên thực tế đã hình thành nhiều khu DLST ở Sa Pa (Lào Cai), Mộc Châu (Sơn La), hồ Pá Khoang (Điện Biên), Thác Bà (Yên Bái)… Mặc dù Tây Bắc có số di tích ít nhất miền Bắc (khoảng 1%) nhưng đây lại là vùng lịch sử lâu đời, nơi xuất hiện sớm nhất nền văn hóa đá cuội, tiền thân của nền văn hóa Hòa Bình. Đến với Tây Bắc, du khách được thăm các di tích lịch sử văn hóa như Điên Biên Phủ, Nhà tù Sơn La… Bên cạnh đó, còn có nhiều sản phẩm du lịch độc đáo của nền văn hóa các dân tộc, hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian, lễ hội, các món ăn… Tất cả đều hấp dẫn du khách và là điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch nói chung và DLST nói riêng của vùng.

         2. Hiện trạng du lịch ở Tây Bắc

         Du lịch Tây Bắc có sự phân hóa rõ về luồng khách trong nước và quốc tế. Theo số liệu Thống kê du lịch Việt Nam năm 2000 – 2012, khách du lịch quốc tế tới Tây Bắc tập trung ở 4 tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, trong khi đó, khách nội địa lại thích đến Phú Thọ, Yên Bái, Hòa Bình. Do đó, xét về doanh thu từ du lịch thì Phú Thọ và Lào Cai là hai tỉnh đứng đầu, dù khác nhau về lượng du khách.

         Sự khác biệt về nguồn du khách tới từ thị hiếu khác nhau giữa khách quốc tế và trong nước, đã đặt ra những thách thức trong xây dựng, quản lý du lịch ở các địa phương. Du khách quốc tế ưa thích các địa điểm tham quan thiên nhiên, do đó họ lựa chọn Sa Pa, Bắc Hà (Lào Cai), Đồng Văn (Hà Giang)… Trong khi đó, khách nội địa có xu hướng chọn điểm đến gần Hà Nội gắn với các hoạt động tâm linh như đền Hùng (Phú Thọ)… Việc xây dựng mô hình du lịch đáp ứng được thị hiếu khác biệt của cả hai nhóm du khách là thách thức lớn đối với các nhà nghiên cứu. Theo cuộc điều tra khảo sát nhu cầu du khách do Hội Văn nghệ Dân gian thực hiện vào cuối năm 2014 tại Sa Pa (Lào Cai) cho thấy nhu cầu du lịch của khách quốc tế và nội địa có sự khác biệt lớn. Trong khi du khách quốc tế mong muốn thị trấn Sa Pa không mở rộng, không xây dựng khu giải trí hiện đại, thì khách trong nước lại phàn nàn dịch vụ giải trí còn nghèo nàn, giao thông chưa thuận tiện… Nhìn chung, khách nước ngoài quan tâm nhiều tới những vấn đề môi trường, văn hóa bản địa, khách nội địa chú ý tới các loại hình giải trí, tiện nghi nơi ở và đi lại… Do đó, xây dựng mô hình DLST ở vùng Tây Bắc cần cân nhắc nhiều yếu tố, kết hợp đa ngành và dựa trên sự nghiên cứu, khảo sát các điều kiện tự nhiên, xã hội và văn hóa.

         3. Nguyên tắc phát triển DLST

         Trong nghiên cứu của Viện Đại học Mở Hà Nội (2008) đã đưa ra 6 nguyên tắc phát triển DLST: có hoạt động giáo dục và diễn giải nhằm nâng cao hiểu biết về môi trường, qua đó tạo ý thức tham gia và các nỗ lực bảo tồn; bảo vệ môi trường, duy trì hệ sinh thái, tránh tối đa sự can thiệp nhân tạo vào môi trường sinh thái tự nhiên; nghiên cứu xây dựng quy hoạch du lịch; bảo vệ, phát huy bản sắc văn hóa cộng đồng; nghiên cứu và xác định sức chứa; tạo cơ hội có việc làm, mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương.

         Như vậy, môi trường, cộng đồng bản địa và quy hoạch là 3 yếu tố cần đặc biệt chú trọng khi phát triển loại hình DLST. Hiện nay, việc tránh tối đa sự can thiệp nhân tạo vào môi trường sinh thái tự nhiên vùng Tây Bắc đang bị lơ là. Cụ thể, việc xây dựng cáp treo lên đỉnh Fansipan là sự can thiệp thô bạo vào tự nhiên, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sinh thái của vườn quốc gia Hoàng Liên, thậm chí hủy hoại sinh kế của người dân địa phương.

         Hiện nay, nguyên tắc về giáo dục, diễn giải nhằm nâng cao hiểu biết về môi trường cho du khách chưa được thực hiện rộng rãi ở các điểm du lịch vùng Tây Bắc. Ngoài một số biển hướng dẫn, nhắc nhở về bỏ rác đúng nơi quy định thì các nội dung khác còn hạn chế đề cập. Có thể tăng tính hiệu quả của giáo dục ý thức bảo vệ môi trường bằng cách phát tờ rơi hướng dẫn cho du khách, thông báo trên website, mạng xã hội.

         Nguyên tắc về tạo cơ hội việc làm và mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương chưa làm rõ và cụ thể về lợi ích thuộc về ai. Lợi ích về kinh tế có thể bị đánh đổi bởi lợi ích về cơ hội giáo dục, sinh kế, văn hóa… Do đó khi xây dựng mô hình DLST hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, bên cạnh lợi ích kinh tế cần chú ý tới những lợi ích khác, có tính lâu dài cho cộng đồng địa phương.

         4. Vai trò của cộng đồng dân tộc thiểu số trong phát triển du lịch

         Quản lý nguồn lực tự nhiên

         Cộng đồng địa phương là người nắm rõ cách quản lý nguồn lực tự nhiên tại các điểm DLST. Họ là những người đã sinh sống lâu đời, qua nhiều thế hệ, có hệ thống kinh nghiệm và tri thức trong việc chung sống, khai thác tự nhiên phục vụ cho nhu cầu trong cuộc sống. Do đó việc khai thác nguồn lực tự nhiên cần sự tham vấn cộng đồng địa phương. Áp dụng hệ thống kinh nghiệm này sẽ tăng tính hiệu quả của việc quản lý nguồn lực tự nhiên, cũng như góp phần bảo tồn tri thức của các cộng đồng dân tộc.

         Cộng đồng dân cư địa phương còn là chủ nhân lâu đời của các tài nguyên thiên nhiên, vì vậy, việc trao quyền quyết định cho họ sẽ làm cho hoạt động DLST có tính bền vững hơn.

         Chủ thể tài nguyên văn hóa

         Những yếu tố văn hóa của cộng đồng các dân tộc ở Tây Bắc như trang phục truyền thống, ẩm thực, phong tục tập quán, lễ hội… đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút du khách. Du khách không chỉ tham quan, thưởng lãm cảnh đẹp thiên nhiên, mà còn được quan sát, trải nghiệm văn hóa bản địa. Theo khảo sát của tác giả thực hiện vào cuối năm 2014 ở thị trấn Sa Pa, phần lớn du khách nước ngoài đánh giá cao tính đặc sắc văn hóa địa phương. Khách du lịch thích thú quan sát việc mua bán các sản vật địa phương diễn ra một cách tự nhiên ở chợ. Việc di dời chợ Sa Pa là chủ trương, chính sách của chính quyền thị trấn, có thể hợp lý trong bối cảnh quy hoạch chung của đô thị vùng núi này, nhưng đã làm giảm tính hấp dẫn đối với du khách, gián tiếp ảnh hưởng tiêu cực tới người dân địa phương.

         Do đó việc xây dựng mô hình DLST cần dựa trên sự tôn trọng đối với chủ thể văn hóa của địa phương và hướng tới mục tiêu tối đa hóa lợi ích cho cộng đồng cư dân bản địa.

         Lực lượng lao động chính

         Cộng đồng chính là người am hiểu cách thức di chuyển, các cảnh đẹp tự nhiên của điểm du lịch, đặc trưng văn hóa tộc người, vì vậy, họ sẽ là những hướng dẫn viên lý tưởng cho du khách. Theo kết quả khảo sát, đa phần khách nước ngoài lựa chọn hướng dẫn là người địa phương, thay vì hướng dẫn viên chuyên nghiệp của các công ty lữ hành. Do đặc trưng nhu cầu của du khách lựa chọn DLST là vừa tham quan cảnh đẹp tự nhiên, vừa học hỏi văn hóa cộng đồng, nên việc sử dụng hướng dẫn người địa phương sẽ mang lại lợi ích lớn cho cả công ty lữ hành lẫn các làng bản Tây Bắc.

         Bên cạnh làm người hướng dẫn, các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc còn cung cấp lực lượng lao động vận chuyển cho nhiều điểm du lịch trong vùng như nhóm xe ôm, khuân vác đồ thuê, cung cấp dịch vụ lưu trú cho du khách trong những tour DLST qua đêm. Phần lớn các hộ dân người Giáy ở thôn Tả Van 1, huyện Sa Pa có kinh doanh lưu trú tại gia. Tuy nhiên, thu nhập từ việc kinh doanh còn khiêm tốn. Nhìn vào quy trình thực hiện một tour du lịch điển hình có thể thấy sự phân phối lợi ích: du khách đặt tour qua các công ty lữ hành, được hướng dẫn viên đưa đi tham quan và bố trí nghỉ qua đêm ở nhà người dân. Công ty lữ hành cho xe chở đồ ăn thức uống xuống tận thôn bản cho du khách… Như vậy, chủ nhà không thu được gì ngoài tiền lưu trú của khách. Hình thức kinh doanh này không mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho người dân, cũng không hướng đến sự phát triển bền vững. Với tư cách là lực lượng lao động chủ chốt tại điểm đến, cộng đồng địa phương xứng đáng có tiếng nói và được hưởng lợi chính từ quá trình phát triển du lịch (1).

         _______________

         1. Bài viết này là sản phẩm của đề tài Nghiên cứu xây dựng mô hình phát triển du lịch sinh thái theo hướng phát triển bền vững vùng Tây Bắc, mã số KHCN-TB, 09X/13-18, Đề tài được tài trợ bởi Chương trình khoa học và công nghệ phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Bắc, ĐHQGHN.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 382, tháng 4-2016

Tác giả : TRẦN THÙY DƯƠNG

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *