Trong tâm thức người phương Đông, cái tên thể hiện nguyện vọng về tương lai của cá nhân trong mối quan hệ với gia đình, dòng tộc, quốc gia. Đối với đấng quân vương, cái tên, còn gọi là niên hiệu, danh hiệu của vị vua, được đặt khi lên ngôi, để thần dân trong nước gọi các ngài, thay vì tên chính, tên cúng cơm, đồng thời để tính năm trị vì. Ví dụ: Lý Nam Đế (544 – 548) niên hiệu là Thiên Đức (đức của trời). Tên cũng được gọi là tôn hiệu, dùng để tôn vinh các vị vua tài giỏi, có công với đất nước, hoặc nhân dịp vua thắng trận trở về. Khi Đinh Bộ Lĩnh (968 – 979) lên ngôi hoàng đế, đình thần dâng tặng tôn hiệu Đại Thắng Minh Hoàng Đế. Theo sử cũ, Đinh Tiên Hoàng là vua đầu tiên có tôn hiệu.
Tên không chỉ được chọn để đặt cho một con người vừa mới sinh, mà cả người sắp lâm chung cũng được đặt và dùng để thờ cúng, ấy là tên thụy. Tên thụy thể hiện tính cách tốt xấu, giá trị sống, công trạng của người ấy lúc sinh thời với dòng họ, tổ tiên, làng xã, đất nước.
Cuộc cách mạng quan trọng nhất được loài người tạo ra ngay trong buổi bình minh lịch sử là giao tiếp, các nhà khoa học gọi là cuộc cách mạng thông tin lần thứ nhất. Tiếng nói, xuất hiện ở cuộc cách mạng này, là một bước đột phá vĩ mô trong giao tiếp giữa con người với con người. Từ đây, nhân loại đã phát triển sự định danh cho cá nhân con người, đất, các sự vật, hiện tượng trên thế giới (1). Sự hình thành cách đặt tên đã xuất hiện từ hàng nghìn năm về trước, trên tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, do khác biệt về địa lý, về phong thổ đất đai hay chính trị, tôn giáo, tín ngưỡng nên cách đặt tên cũng xuất hiện sự khác biệt trong quan niệm giữa phương Đông và phương Tây.
“Danh xưng học là ngành ngôn ngữ học nghiên cứu tên riêng của người, động vật, sự vật” (2). Phạm vi nghiên cứu của khoa học này rất rộng, bao gồm mọi khu vực địa lý, văn hóa, ngôn ngữ, và mọi thời đại lịch sử. Danh xưng học được chia làm hai ngành:
Địa danh học (toponymy) và tính danh học (anthroponymy). Địa danh học nghiên cứu về tên nơi chốn, trực thuộc môn địa lý học. Tính danh học nghiên cứu về tên con người, trực thuộc khoa nhân chủng học. Mỗi ngành trên lại chia làm nhiều ngành phụ như địa danh học Việt Nam hoặc Trung Quốc; tính danh học Hoa Kỳ hoặc Pháp…
1. Về triết lý nhân sinh của người Việt trong vấn đề chọn danh tính
Tính danh học Việt Nam là một khoa học cần có sự đóng góp của nhiều người, nhiều địa phương, nhiều chủng tộc khác nhau. Đến thời điểm này, chưa có một tài liệu đầy đủ về cách định danh của người Việt Nam. Xã hội ngày càng phát triển, con người không chỉ khẳng định vị trí của mình trong xã hội, mà còn với giới tự nhiên. Con người luôn hy vọng về tương lai tốt đẹp ở con cháu, nên họ đặt tên ngay sau khi đứa trẻ chào đời. Những tên gọi ấy thường là mỹ tự, như để tin vào một tương lai tươi sáng hơn (3). Đấy cũng là suy nghĩ, mong ước hay quan niệm về cách gọi tên của người Việt Nam nói riêng và người châu Á nói chung. Tên đẹp, được cho rằng, sẽ mang lại nhiều may mắn hơn một cái tên xấu.
Đấng quân vương, các nhân vật nổi tiếng thường có tên gọi và tên tự. Tên tự được dùng để gọi tránh tên húy, ví dụ như “Nguyễn Đình Chiểu tự là Mạnh Trạch, Trương Hán Siêu tự là Thăng Phủ…”. Tên tự được định nghĩa là tên đặt dựa vào tên vốn có, thường phổ biến trong giới trí thức thời phong kiến (4). Tên của vua chúa ngày xưa được gọi là tên húy, không được đặt trùng. Hoặc, trong dân gian, mỗi dòng tộc đều có gia phả, các đời sau không được đặt tên trùng với các vị tổ, cao tổ, tằng tổ, đấy cũng gọi là tên húy. Lại có các quy tắc riêng về đặt tên vua chúa cho từng triều đại, từng dòng họ, theo thuyết ngũ hành: “Các vua đời nhà Trần tên đặt có bộ nhật, đời Lê Mạt có bộ thỉ, các chúa Trịnh có bộ mộc, các chúa Nguyễn có bộ thủy…” (5). Trong dân gian còn có quy định đặt tên cho con theo cách tính ngũ hành. Những hành khuyết được bồi thêm, sao cho con người hài hòa với thiên địa, cuộc sống của người đó sẽ phát triển tốt đẹp trong tương lai. Dĩ nhiên, đây chỉ là cách lý giải theo kinh nghiệm dân gian của người Việt Nam cổ xưa (6). Kinh nghiệm này đã thịnh hành, phát triển và gắn liền với từng giai đoạn, từng thời kỳ lịch sử. Đến nay, cách tính này chưa hoàn thiện hay chính xác tuyệt đối với con người trong xã hội hiện đại.
Một cái tên hay, đẹp sẽ gặp được nhiều thuận lợi hơn trong công việc, nhất là công việc có tính chất giao dịch, đối ngoại. Hiện nay, trong bối cảnh Việt Nam đã, đang và sẽ tham gia nhiều tổ chức quốc tế, hội nhập thế giới, nên việc danh tính của người đại diện hay của một tổ chức là rất quan trọng.
Cũng cần thấy rằng, quan niệm về tên tuổi, cách định danh ở Việt Nam (nhất là người Việt) chịu ảnh hưởng một phần từ văn hóa Trung Hoa. Cách đặt tên, tên đệm cũng theo nguyên tắc ngữ nghĩa và danh tự Trung Hoa cổ xưa. Có thể thấy điều này qua một số tài liệu của học giả Trung Quốc như: Cách đặt tên người theo năm sinh của Âu Dương Sơn Nhân, Vương Quân Văn và Khang Di Tường… Trung Quốc là một quốc gia có truyền thống văn hóa đồ sộ và lâu đời, nó có ảnh hưởng rất lớn đến các quan niệm, tư duy của người phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Mặc dù chịu ảnh hưởng lớn của ngôn ngữ và văn hóa Trung Hoa, nhưng do sự phát triển của xã hội, nên quan niệm đặt tên của người Việt cũng có những sự khác biệt đáng kể (7). Tên của người Việt thường gồm ba chữ: “Chữ đầu là họ, như Nguyễn, Trần, Lê…; chữ thứ hai là chữ đệm, người ta thường dùng Văn, Đình… cho nam giới và Thị cho nữ giới, chữ thứ ba là tên” (8).
Người phương Đông hay người Việt Nam luôn mong một cuộc sống tốt lành. Ước vọng đó, thể hiện ngay cả trong cách đặt tên trong dân gian phi quan phương. Khi đứa bé mới sinh ra thường được gọi bằng những cái tên tục như: Khoai, Cu, Tý, Cò, Gái; con Đĩ, Hến, Hĩm,… hoặc Cún, Vện,… Sở dĩ tên tục thường dùng từ xấu có ý nghĩa tục tằn như bộ phận sinh dục hay tên loài vật để đánh lừa ma quỷ, vì họ tin rằng, tà ma thích bắt đi những đứa trẻ đẹp. Đến khi đứa trẻ được 5 đến 10 tuổi mới đặt tên chính thức. Các bậc cha mẹ cũng quan niệm rằng, làm như vậy, thần linh sẽ không bắt đứa trẻ đi mà để chúng lại gia đình nuôi cho đến khi khôn lớn. Khi đặt tên con gái là Mẹt, gia đình mong muốn cho con sau này biết tề gia nội trợ.
Tên tự thường được dùng để thể hiện phẩm chất, khí tiết và tư tưởng của con người, đặc biệt là những trí thức phong kiến có ảnh hưởng tư tưởng Khổng Mạnh. Ví dụ như cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), tự là Hạnh Phủ, sau khi từ quan, ông về quê nhà tự lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ. Hạnh là đức hạnh, liên hệ đến Khiêm là nhún nhường, còn chữ Phủ thêm vào để tỏ vẻ tôn kính. Bạch Vân nghĩa là áng mây màu trắng, chỉ sự sáng trong của tâm hồn con người, nhưng, cũng đồng thời thể hiện triết lý nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống đúng đạo trời, hiểu mệnh trời, giữ lấy cái đạo trung thường trong vạn vật trời đất, sống an nhiên tự tại như áng mây trôi giữa bầu trời.
Tầng lớp nho sĩ hoặc những người có tri thức thường dùng những chữ đẹp để đặt tên (chủ yếu là chữ trong cùng một bộ) như Thủy, Sơn, Ngọc…(9). Như con đầu đặt là Giang thì con sau đặt là Hà, Hán, Hải… Tầng lớp trí thức nho học, ngoài tên tục, húy cha mẹ đặt cho, thường đặt tên tự hoặc tên hiệu để dùng khi viết văn. Văn sĩ ngày nay thường xưng hô với nhau bằng tên hiệu như các nhà nho đời trước. Đến khi lâm chung, người ta thường đặt tên thụy cho người chết để thờ. Người tốt dùng từ ngữ có ý nghĩa ca ngợi, người xấu đặt thụy hiệu có ý chê bai để làm gương cho người sau. Nguyên tắc là như thế, nhưng dân gian coi việc đặt thụy hiệu có mục đích ca ngợi công đức người quá cố, nên các tên này đều có ý nghĩa tốt đẹp. Ví như Chu Văn An có tên thụy là Văn Trinh, Nguyễn Huỳnh Đức có tên thụy là Trung Nghị…
Trên thực tế, tên gọi hình như không có liên hệ gì với cuộc sống của chúng ta, nó giống như một ký hiệu riêng của mỗi người. Hai người trùng tên, trùng họ nhưng số phận hoàn toàn khác nhau. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi thành tựu mỗi người là kết quả nỗ lực và phấn đấu không ngừng của bản thân. Nếu một người cho rằng, đã có cái tên hay thì không cần phấn đấu, vươn lên thì anh ta sẽ sớm gặp thất bại trong cuộc sống. Tuy nhiên, vấn đề không diễn ra đơn giản như vậy. Tên của một người không chỉ đại diện cho người đó mà còn ảnh hưởng đến các vấn đề xã hội, sự nghiệp, nhân cách của họ. Vì thế, đặt tên là một việc đáng được coi trọng (10). Một cái tên được coi là tốt do ý nghĩa, hình tượng chữ, cách phát âm, số nét và tuân theo ngũ hành… Vấn đề này cần được xem xét cẩn thận để đảm bảo cân bằng của tứ trụ, điều đó sẽ hỗ trợ, khiến họ thành công hơn và hóa giải bớt những yếu tố xấu trong cuộc sống.
Tên gọi của con người nhiều khi mang lại cảm giác vui vẻ, nhưng cũng có tên mang đến cảm giác bực bội khó chịu, đơn giản vì nó liên quan đến sự ám thị tâm lý của mỗi người. Tên gọi không những có tác dụng lên tâm lý người nghe mà còn ảnh hưởng đến chính tâm lý của người mang tên (11). Nếu một người mang tên đẹp, khi tiếp xúc xã hội sẽ có cảm giác tự tin và vui vẻ thể hiện bản thân. Cái tên đẹp cũng tác động tới những người tiếp xúc với chủ thể, tạo tâm lý thoải mái hơn và dễ dàng đạt được thành công mong muốn. Nhưng nếu mang một cái tên xấu, khi ra ngoài, bản thân người đó sẽ tự ti và không có cảm giác mình được mọi người tôn trọng. Không những thế, các đối tượng tiếp xúc với chủ thể cũng sẽ bị ám thị bởi cảm giác nghi ngờ và dẫn đến các lý do không thành công sau này.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là chỉ cần có tên tốt thì sẽ không cần phấn đấu mà vẫn thành công, vì tính danh tốt chỉ là cái tiền đề tạo đà cho bản thân. Còn vận mệnh con người tùy thuộc vào nhiều thứ khác nữa, một trong số đó, chính là sự cố gắng vươn lên không ngừng của mỗi cá nhân.
2. Quan niệm danh tính trong nhân sinh phương Đông
Nhân sinh quan, quan niệm về sự sinh tồn của con người, giúp ta xem xét về sự sống của con người, hay bao quát hơn là quan niệm về những định luật diễn ra trong đời sống nhân loại. Mỗi người đều có một nhân sinh quan khác nhau, có người lạc quan, người bi quan… Nhân sinh quan của người Trung Hoa rất đề cao tổ tiên, các tín ngưỡng thường bắt nguồn từ việc thờ cúng tổ tiên trong gia đình, họ tộc hay cộng đồng, nhận được phúc đức của tổ tiên hoặc bị giáng tai họa hay không tùy thuộc vào thái độ ứng xử của con cháu. Nhân sinh quan của người Trung Quốc nói riêng và người phương Đông nói chung đều mang nặng giá trị tinh thần. Họ có niềm tin vào thần, Phật và hết lòng đi theo những giáo lý đề cao sự giác ngộ.
Cũng chính vì vậy mà nhân sinh quan của người phương Đông trong việc định danh luôn được coi trọng. Đối với họ, cái tên không chỉ để phân biệt giữa một sự vật hiện tượng này với một sự vật hiện tượng khác, mà còn là một thứ có thể tác động đến số mệnh con người. Tên người là dấu hiệu đại biểu, đại diện cho mỗi cá nhân. Nhưng người phương Đông, đặc biệt là người Trung Hoa, không chỉ có một lần đặt tên, cũng không chỉ có một cách xưng hô. Mà, tên của họ vô cùng phức tạp, thường bao gồm họ tên, tự, hiệu…, hơn nữa, do lịch sử lâu đời của Trung Quốc, dẫn đến mỗi một thời kỳ lại có cách xưng hô khác nhau (12). Bên cạnh đó, tính danh của họ thường mang tính địa phương, điều này thể hiện rõ ở các họ ít phổ biến: như Vân Nam, Đại Lý có họ Đoàn, Quảng Đông có họ Du, Hà Bắc có họ Mạc… (13). Đặc điểm địa phương này trong quan niệm tính danh phương Đông nói chung và ở Trung Hoa nói riêng vẫn còn tồn tại tới ngày nay.
Người Trung Hoa xưa tìm họ tên cho mình theo nhiều nguồn gốc khác nhau. Chẳng hạn, họ có thể chọn tên đất, nước, triều đại, làng mạc, thành quách hoặc tên vua ban, nhân vật lịch sử, nghề nghiệp, cây cối, đồ vật, phương hướng làm danh tính cho mình. Ngoài ra, họ còn dùng từ ngữ tôn kính để đặt họ tên. Qua đây, cũng có thể thấy việc chọn họ tên của người Trung Quốc xưa kia theo nguồn gốc từ những gì họ kính trọng, yêu quý, hướng tới sự hòa hợp với thiên địa, hy vọng về một tương lai tốt đẹp.
Việc đặt tên của người Trung Quốc cũng mang tính thời đại rõ nét, nhằm gửi gắm lý tưởng và hy vọng của mình. Trước thời kỳ giải phóng, vì sự khắc nghiệt và nghèo đói của cuộc sống mà cha mẹ thường đặt tên con cái mình là Phúc, Phát, Tài, Bảo…, đó chính là niềm mơ ước của bố mẹ rằng con cái sau này sẽ có một cuộc sống giàu sang, sung túc. Hay vào thời kỳ chống Mỹ giúp Triều Tiên, có không ít người mang tên là Viện Triều… Rồi chiến tranh kết thúc, thời đại mới xuất hiện, người Trung Hoa luôn muốn phát triển mạnh mẽ hơn để đuổi kịp các cường quốc phương Tây như Anh, Mỹ… Hàng loạt cái tên có tính đột phá, nhảy vọt như Siêu Anh, Diệu Tiến lần lượt xuất hiện. Đến thời kỳ đại cách mạng văn hóa, những cái tên như Văn Cách rất được ưa chuộng. Tất cả đều nói lên sự thay đổi các thời đại có ảnh hưởng rất lớn đến nhân sinh quan của người Trung Quốc trong việc định danh.
Tên gọi không chỉ thể hiện mong muốn tốt đẹp vào tương lai, mà còn bộc lộ tính mỹ học và âm thanh hài hòa. Tính danh của mỗi người đều thể hiện một phần cá tính của người đó. Khi mỗi sự vật hiện tượng được định danh, thì bản thân cái tên đó đã chứa đựng một lượng thông tin nhất định (14). Đầu tiên, cái tên là để phân biệt một sự vật hiện tượng này với một sự vật hiện tượng khác. Sau đó, cái tên dù theo nghĩa này hay nghĩa khác, nhưng vẫn truyền đạt tới người nghe một khái niệm đầu tiên về chính nó. Với người nhận thông tin, cái tên phần nào đã phản ánh về tính cách, tư tưởng, ý nguyện, nghề nghiệp và nhiều khi có ảnh hưởng không nhỏ đến vận mệnh của mỗi người. Sau này, cái tên cũng là thứ sẽ gắn bó suốt cuộc đời, gắn liền với tư tưởng, trình độ học vấn, công tích và sự nghiệp của bạn. Ví dụ khi nhắc tới Tần Thủy Hoàng, người ta sẽ nhớ ngay đến vị hoàng đế đầu tiên (221 trước CN), người đã có công thống nhất Trung Quốc, song vô cùng tàn bạo vì đã đốt sách và chôn sống hơn 460 nhà nho. Hay khi nhắc đến Tôn Trung Sơn, mọi người biết ngay đây là một nhà ái quốc, người sáng lập ra Quốc Dân Đảng…
Đối với người phương Đông, mỗi cái tên có giá trị tinh thần rất lớn. Cha mẹ sinh con đều muốn đứa trẻ mang những cái tên tốt đẹp, vì danh tính đó sẽ đi theo đứa bé đến suốt cuộc đời. Tên gọi của con người cũng rất kỳ lạ, bất cứ sự vật hiện tượng gì, bất cứ ngôn từ như thế nào đều có thể đặt thành tên. Không ai dám nói rằng, mình biết tất cả các họ tên trên thế giới. Hiện nay, các hiệu sách có bán một số ấn phẩm nói đến mối quan hệ giữa tên người và số mệnh. Nội dung xoay quanh vấn đề tên người có ảnh hưởng như nào đến vận mệnh mỗi người; đặt tên gì để làm quan, để phát tài, để không gặp rủi ro… Những loại sách này phần lớn đều không có tác dụng nhiều.
So sánh nhân sinh quan của người Trung Hoa với người Việt Nam, ta có thể thấy rằng: ở Việt Nam giá trị tinh thần và niềm tin vào tôn giáo tín ngưỡng cũng luôn được đề cao và xem trọng nhưng không đông đảo và nhiệt thành như người Hoa. Đối với người Việt Nam, đặt được một cái tên đẹp cho con cái, họ sẽ rất vui mừng và tin rằng, cái tên ấy sẽ giúp số mệnh đứa trẻ trở nên tốt hơn. Nhưng nếu không thể tìm được một cái tên như ý, họ cũng không quá sợ hãi hay lo lắng rằng vận mệnh đứa trẻ sẽ bị xấu đi. Nhưng xét trên tổng thể thì nhân sinh quan của người phương Đông nói chung và trong việc định danh nói riêng, ngoài tác dụng về mặt đời sống còn rất đề cao tác dụng về mặt tinh thần, tâm linh.
3. Quan niệm tính danh trong nhân sinh phương Tây
Người phương Tây lấy khoa học làm cơ sở, vì thế, nhân sinh quan của họ gắn liền với các thành tựu khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên. Vì vậy mà triết học phương Tây gắn liền với giáo dục đạo đức và chính trị, xã hội. Do đó, quan điểm của người phương Tây về triết học là giải thích thế giới theo nhiều khía cạnh và bằng các cách thức khác nhau. Họ có tính tuần tự đi từ gốc đến ngọn, hạ tầng cơ sở sẽ quyết định thượng tầng kiến trúc nên nhân sinh quan của họ khá thực dụng. Người phương Tây không có niềm tin vào thần, phật, cũng như ma quỷ (không có tư duy đa thần). Tư duy của họ duy lý, khác với người phương Đông thường dùng trực cảm và đề cao sự giác ngộ của tư duy duy tâm. Người phương Tây có xu hướng tạo sự nhảy vọt về vật chất, nên nhân sinh quan của họ tiến hóa rất nhanh, đồng thời cũng nhanh chóng rời xa cái gốc ban đầu, có những trường hợp giai đoạn sau hoàn toàn phủ định giai đoạn trước. Người phương Tây hướng ngoại, thiên về duy vật, chủ động trong mọi việc, hiếu chiến và thích tranh đấu, đề cao chủ nghĩa cá nhân, phân tích và suy luận theo lôgic. Và, họ đánh giá cao những gì là thực thể tồn tại chứ không có niềm tin vào vấn đề tâm linh.
Cũng vì thế, tính danh trong quan niệm của người phương Tây hoàn toàn không được coi là một vấn đề đặc biệt. Mặc dù, tên họ của người phương Tây được khởi xướng từ các giáo sĩ, nhưng nó không mang tính thần thánh mà đơn giản chỉ là để đáp ứng nhu cầu hành chính. Hay nói dễ hiểu hơn, là để kiểm soát con người trên phương diện đời sống hàng ngày, chứ không giống người phương Đông phổ biến nguồn gốc tổ tiên để sau này hành lễ hoặc thờ cúng. Và vì không quan trọng, nên tên của người phương Tây thường có cả những cái tên hay hoặc rất xấu như: con lợn (cochon), đầu to (caputo), đầu bé (capone)… thay vì những cái tên mang ý nghĩa tốt đẹp như người phương Đông.
Người phương Tây cũng đặt tên theo địa danh hay các khu vực địa lý như French, English, Scott… Hoặc, tên liên quan đến nghề nghiệp chức vụ như Fisher, Woodman, Forester… Tuy nhiên, sự khác nhau khá lớn trong tính danh phương Tây và phương Đông là người phương Đông (Việt, Hoa) đặt tên thường có ý nghĩa, ai cũng có thể hiểu, nhưng người phương Tây lại có những tên thuộc ngôn ngữ đặc biệt hoặc không có ý nghĩa và ít được phổ biến.
Nói rộng ra, đây cũng chính là tính thực dụng và duy vật, duy lý trong triết học phương Tây. Họ chỉ tin vào khoa học, logic và tồn tại chứ không tin vào thần thánh, tâm linh. Chính vì thế, tính danh hay tên gọi trong quan niệm nhân sinh của người phương Tây chỉ đơn thuần là để phân biệt cá thể này với cá thể khác, phần nhiều mang tính vật chất, ít nặng về tâm linh. Vì vậy, họ không đề cao mối quan hệ thứ bậc trong xã hội, cũng không đi theo thiên hướng thể nghiệm vị trí của mỗi người trong vũ trụ càn khôn như phương Đông. Theo nhà tính danh học Elsdon C.Smith, nguồn gốc tên họ của con người nói chung tại châu Âu và châu Mỹ được chia làm bốn nhóm chính: từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ; từ ngữ chỉ địa danh, nguồn gốc chủng tộc; từ ngữ chỉ đặc điểm cơ thể, tính tình, biệt hiệu; tên riêng của cha hoặc tên thánh.
Qua việc so sánh giữa tính danh trong nhân sinh quan của người phương Đông và người phương Tây, có thể thấy sự khác biệt được thể hiện rõ ràng của hai trường phái: một bên đề cao yếu tố tâm linh, tinh thần; còn một bên quan tâm đến khía cạnh vật chất, sự việc nhiều hơn khi đặt và chọn danh tính. Nói cách khác, đó là sự khác biệt giữa tính thực dụng và giá trị tinh thần. Đối với người phương Đông, cái tên mang một ý nghĩa rất lớn lao, vì nó không phải chỉ để nhận biết, phân biệt ta với những con người khác, mà còn có ảnh hưởng rất lớn đến số mệnh của ta sau này. Tính danh một con người chính là tiền đề, là đà bước để người đó có thể dễ dàng phấn đấu, gắng thân mà đạt nhiều thành tựu hơn trong cuộc sống. Thiết nghĩ, nếu là một con người thông tuệ, ta nên tìm kiếm và định danh cho bản thân cũng như cho con cháu một cái tên thật đẹp và thật tốt. Đó chính là ta đã giúp đỡ cho bản thân hay con cháu bước vào một con đường tươi sáng hơn. Để làm tốt điều này, cần phải có những nghiên cứu sâu hơn về tính danh học Việt Nam, làm cơ sở cho việc chọn tên đạt giá trị thẩm mỹ, có ý nghĩa bổ sung hành khuyết, tạo sự hài hòa sinh vận khí cát tường cho đời người, góp phần tạo thế hệ tương lai tốt đẹp cho người Việt Nam.
_______________
1, 3, 5, 6. Tôn Nguyệt Hoa, Tên hay kèm điều tốt, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2005, tr.3, 5, 6.
2, 4. Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông Tin, Hà Nội 1998, tr.511, 517.
7, 10, 11, 14. Cao Từ Linh, Việt danh học, Nxb Thời đại, Hà Nội, 2009, tr.5, 9, 10, 7.
8, 9. Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2002, tr.221, 222.
12, 13. Quan Hy Hoa, Cách đặt tên cho con, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2002, tr.9, 13.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 345, tháng 3-2013
Tác giả : Trần Mạnh Linh
Bài viết cùng chủ đề:
Có một nền văn minh nga
Thương điếm hirado trong hệ thống thương mại đông á của công ty đông ấn anh
Phát triển văn hóa và con người ở chdcnd lào