Diễn ngôn báo chí về lễ hội

Lễ hội dân gian giữ vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa xã hội. Từ năm 1986 đến nay, trong bối cảnh thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế, văn hóa truyền thống nói chung trong đó có lễ hội dân gian được phục hồi, phát huy và làm phong phú hơn đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam. Qua phân tích diễn ngôn lễ hội trên báo chí những năm gần đây cho thấy có nhiều nét đẹp văn hóa, tinh hoa của lễ hội được phát huy nhưng cũng xuất hiện những yếu tố tiêu cực, phản cảm trong các lễ hội. Nhìn từ góc độ nghiên cứu diễn ngôn, có thể thấy những yếu tố tiêu cực này đang phản ánh mặt bằng văn hóa xã hội Việt Nam.

1. Về diễn ngôn và diễn ngôn lễ hội

Khái niệm diễn ngôn (discourse) là một thuật ngữ xuất hiện vào khoảng những năm 50 của TK XX và nhanh chóng trở thành khái niệm trung tâm, được lưu hành rộng rãi trong ngành khoa học xã hội và nhân văn. Cùng với trào lưu phục hưng lễ hội, nghiên cứu diễn ngôn lễ hội cũng thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu văn hóa. Lễ hội dân gian vốn là một hiện tượng lịch sử, hiện tượng văn hóa xuất hiện ở Việt Nam từ rất lâu đời. Lễ hội là một trong những hoạt động văn hóa nổi trội trong đời sống. Hoạt động này diễn ra với nhiều hình thức và cấp độ khác nhau, nhằm thỏa mãn và phục vụ lợi ích đa dạng trước mắt, lâu dài của các tầng lớp người, thỏa mãn những nhu cầu của các cá nhân, tập thể trong môi trường họ sinh sống. Chính văn hóa và các chuẩn mực của văn hóa đã quy định việc dùng ngôn ngữ, chi phối việc tạo dựng diễn ngôn lễ hội, cách thức chúng ta mã hóa – giải mã thông điệp.

Diễn ngôn lễ hội được các học giả đầu ngành trong lĩnh vực văn hóa đề cập đến. Trước hết phải kể đến quan điểm của Nguyễn Văn Huyên, một học giả đã du học ở Pháp mười năm liền, khi viết về hội Gióng (1). Những năm 60 TK XX, nhà sử học Nguyễn Hồng Phong cũng đề cao vai trò của lễ hội (2). Ở miền Nam, học giả Toan Ánh tưởng nhớ hội hè mà ông đã đi xem từ những ngày thơ ấu, coi đó là dịp để thắt chặt thêm tình thân giữa người dân trong làng, giữa các làng lân cận với nhau (3).

Theo thống kê năm 2008 của Cục văn hóa cơ sở, cả nước hiện nay có 7965 lễ hội diễn ra trong một năm (trong đó có 7039 lễ hội dân gian, 544 lễ hội tôn giáo, 332 lễ hội lịch sử cách mạng, 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài và 40 lễ hội khác) (4). Với số lượng lễ hội lớn và được tổ chức gần như vào tất cả các tháng trong năm, có thể nói gần đây lễ hội phát triển mạnh mẽ. Hầu hết các lễ hội từ quy mô quốc gia cho đến phạm vi nhỏ như hội làng đều được tổ chức với các nghi thức cúng lễ trang trọng, linh thiêng và thành kính. Các chương trình tham gia phần hội phong phú, hấp dẫn, bảo tồn có chọn lọc những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc theo xu hướng lành mạnh, tiến bộ, tiết kiệm với các hoạt động văn hóa, diễn xướng dân gian, dân ca, dân vũ để quảng bá giới thiệu nét đẹp văn hóa Việt Nam. Mặt khác, thông qua lễ hội dân gian còn giới thiệu được hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam với những mỹ tục truyền thống văn hóa lâu đời, tốt đẹp, độc đáo, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và tâm thức hướng về cội nguồn. Các sinh hoạt lễ hội truyền thống đã góp phần giáo dục đạo lý uống nước nhớ nguồn, tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong cộng đồng.

Trở về với văn hóa dân tộc, tham gia vào các lễ hội dân gian, con người như được tắm mình trong dòng nước mát đầu nguồn của văn hóa dân tộc, tận hưởng những giây phút thiêng liêng, ngưỡng vọng những biểu tượng siêu việt cao cả, được sống những giờ phút giao cảm đầy tính cộng đồng, được phô bày những nét đẹp tinh túy nhất của bản thân khác hẳn ngày thường… Đó là trạng thái thăng hoa từ đời sống hiện thực. Đó phải chăng là lý do khiến cho lễ hội – một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, văn hóa được nhân dân khắp nơi trên đất nước ta, từ nông thôn đến thành thị, từ già đến trẻ đều đón nhận và hưởng ứng nồng nhiệt.

2. Diễn ngôn báo chí về lễ hội những năm gần đây

Qua phân tích 157 bài viết trên báo in (5) và 58 bài viết trên báo mạng (6) những năm gần đây cho thấy, lễ hội là đề tài thu hút sự quan tâm của giới báo chí. Mặc dù các bài viết chỉ được tìm thấy trong 6 tháng đầu năm (tập trung chủ yếu từ tháng giêng đến tháng 3 âm lịch) nhưng có thời điểm tần suất bài viết phản ánh về lễ hội rất nhiều.

Các lễ hội được báo chí phản ánh nhiều   như: lễ hội chùa Hương (Hà Nội), lễ hội đền Trần (Nam Định), lễ hội đền Hùng (Phú Thọ), lễ hội Yên Tử (Quảng Ninh)… đều là những lễ hội vùng, lễ hội mang tầm quốc gia. Riêng năm 2013 có một lễ hội làng được đề cập nhiều trong các diễn ngôn báo chí là hội làng Ném Thượng (Bắc Ninh). Sự nở rộ của các lễ hội dẫn đến một giai đoạn có thể nói là bùng nổ lễ hội, kéo theo đó là hàng trăm tệ nạn, tiêu cực, phản cảm. Các diễn ngôn về lễ hội trên báo chí thể hiện quan điểm bảo lưu, phục hưng nét đẹp văn hóa lễ hội nhưng cũng có một xu hướng diễn ngôn phê phán các yếu tố tiêu cực, phản cảm đó.

Chưa bao giờ lễ hội lại phát triển rầm rộ như hiện nay. Lễ hội được tổ chức tưng bừng suốt cả bốn mùa, trên khắp các miền quê, từ bắc chí nam, là một nét đặc sắc trong đời sống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam ta từ rất lâu đời và trường tồn cùng năm tháng. Lễ hội tạo nên không khí ồn ào, náo nhiệt ở cả miền ngược lẫn miền xuôi, khẳng định được nét độc đáo, bản sắc văn hóa dân tộc, là dịp để suy tôn những giá trị tinh thần mà cộng đồng cần bảo vệ. Bởi vậy ở một góc độ nào đó lễ hội góp phần không nhỏ trong việc gìn giữ các nền nếp, đạo lý truyền thống của dân tộc qua các nghi lễ trang trọng, những trò diễn xướng vui vẻ.

 Từ năm 2010 đến nay, bên cạnh những diễn ngôn thắng thế lại xuất hiện nhiều diễn ngôn phê phán các yếu tố tiêu cực, phản cảm đang diễn ra tại lễ hội. Các báo nêu quan điểm phản đối, bất bình với các hành động phản cảm này. Thể hiện rõ nhất là các diễn ngôn: mê tín dị đoan, lãng phí, tốn kém, phản cảm, hủ tục, lạc hậu, dã man hoặc những diễn ngôn đầy tính bạo lực như: chờ chực ấn, càn quét lộc, cướp đồ thờ cúng, đè đầu cưỡi cổ nhau để cướp ấn đền Trần, chen lấn, xô đẩy, hỗn chiến, giẫm đạp bạo lực, thảm hại, kinh hoàng… Thậm chí thay vì nói “vui như đi hội” thì báo Tiền Phong, 22 – 2 – 2011 lại bổ sung thêm cụm từ “khổ như đi hội”. Những hành vi phản cảm đang diễn ra trong các lễ hội bị dư luận lên án, xã hội phản đối. Thậm chí báo Vietnamnet, 26 – 2 – 2015 còn cho rằng đó là: “Sự mù quáng tâm linh, tâm lý đám đông, tình trạng kém hiểu biết, tình trạng trí tuệ hạn chế của một bộ phận trong xã hội”.

Nghiên cứu các bài báo viết về lễ hội chúng tôi nhận thấy diễn ngôn báo chí phê phán công tác quản lý, tổ chức yếu kém trong các lễ hội xuất hiện nhiều nhất. Thậm chí báo Tuổi trẻ, 19 – 2 – 2013 còn cho rằng những mặt xấu của các lễ hội mỗi năm trở lại một lần “như một thứ bệnh cũ tái phát”. Nổi bật lên là các diễn ngôn thắng thế, coi lễ hội là nét đẹp văn hóa từ xa xưa của dân tộc Việt Nam, là nơi biểu thị sức mạnh cố kết cộng đồng phân tích các diễn ngôn báo chí cho thấy.

Một trong vài lễ hội kịch tính nhất hiện nay là lễ phát ấn đền Trần. Báo Tiền Phong, 18 – 2 – 2011 nêu lên cảnh hỗn loạn tại lễ phát ấn đền Trần phản ánh phần nào trình độ văn hóa của những người tham gia lễ hội: “Chen lấn, giằng, cướp, giẫm đạp nhau và ngất xỉu, đó là cảnh hỗn độn đêm khai ấn đền Trần, Nam Định”. Nhìn từ góc độ văn hóa, có thể thấy lễ khai ấn đền Trần đã đánh trúng tâm lý thích làm quan, muốn đạt được quyền chức của nhiều người. Hiện nay vẫn có nhiều người cho rằng làm quan mới là con đường duy nhất đúng đắn. Nhưng không phải ai cũng có đủ năng lực để làm quan. Bởi vậy để đạt được quyền chức – cái mà cầu luôn vượt gấp nhiều lần cung, đương nhiên người ta phải tranh giành, thậm chí giẫm đạp lên nhau, phải viện nhờ tới những thế lực cao hơn… Tất cả những điều đó đã được hiện thực hóa theo kiểu rất truyền thống trong một lễ hội dân gian đương đại như lễ phát ấn đền Trần. Lễ hội được thiết kế phù hợp với nhu cầu cấp thiết của con người hiện đại. Sự hứa hẹn về một quyền lực mà người ta đang chưa biết cách làm thế nào để chiếm hữu nhanh nhất thì bỗng dưng có được trong tầm tay qua hình thức lá ấn. Nếu trong xã hội, không ai dám chắc quyền lực hay chức tước có thể mua được thì lễ hội đền Trần lại vật chất hóa ý tưởng này. Phải chăng lễ phát ấn đền Trần đã phản ánh đúng mặt bằng văn hóa, dân trí xã hội Việt Nam hiện nay.

Gần đây, dư luận xã hội quan tâm nhiều đến lễ hội làng Ném Thượng (Bắc Ninh). Trong số 58 bài báo mạng điện tử được khảo sát có tới 15 bài viết về lễ hội làng Ném Thượng. Sở dĩ báo chí quan tâm khá nhiều đến lễ hội này xuất phát từ sự phản đối của Tổ chức Động vật châu Á cho rằng tục (hèm) chém lợn trong lễ hội này là dã man. Tuy nhiên bản thân những người trong làng không nghĩ như vậy. “Những người cao tuổi làng Ném Thượng tỏ ra rất bức xúc khi nghi thức cúng tế thần linh truyền thống của làng mình với ý nghĩa tốt đẹp là tôn vinh công lao của thành hoàng Đoàn Thượng, nhắc nhở con cháu về truyền thống anh dũng và cầu cho mùa màng bội thu… bị một số người cho là dã man” (Báo Vnexpress, 9 – 2 – 2015 ghi nhận). Vấn đề đặt ra là tại sao bản thân những người thực hành văn hóa (người dân làng Ném Thượng) không cho đó là hành động dã man thì những người ở một quốc gia xa xôi (Tổ chức động vật châu Á) nào đó vốn mang nặng trong mình quan điểm tiến hóa luận coi hành động của các dân tộc kém văn minh hơn mình là lạc hậu, man rợ. Văn hóa vốn là cội nguồn, bản sắc của một dân tộc, một đất nước. Bởi vậy khi dư luận xã hội có nhiều ý kiến trái chiều xung quanh việc bỏ hay tiếp tục thực hiện nghi lễ thì người dân làng Ném Thượng vẫn tổ chức chém lợn công khai giữa sân đình như một sự thách thức dư luận.

Điểm đặc biệt chúng tôi nhận thấy qua các diễn ngôn báo chí đó là mỗi năm số lượng người tham gia lễ hội lại đông hơn năm trước. Chứng tỏ, dù cho diễn ngôn báo chí có phê phán lễ hội là phản cảm, là mê tín dị đoan, là khủng hoảng hay nhếch nhác, bạo lực thì người dân vẫn tín nhiệm lễ hội với tất cả những mặt phải và trái của nó.

3. Những vấn đề đặt ra

Phân tích diễn ngôn báo chí về lễ hội cho thấy diễn ngôn thắng thế coi “lễ hội là nét đẹp văn hóa dân tộc, là mỹ tục truyền thống vốn có từ ngàn đời nay” ít xuất hiện trong những năm gần đây. Thay vào đó là những diễn ngôn yếu thế, diễn ngôn phê phán sự phản cảm, bạo lực, tranh giành trong các lễ hội. Những hiện tượng như rải tiền lẻ tràn lan, lễ thuê, cúng thuê, đốt vàng mã, tranh ấn, cướp lộc… tại các lễ hội tái diễn ngày càng nhiều khiến các nhà báo phải lên tiếng rằng “cả xã hội đang quá mê tín”.

Cho đến giờ vẫn chưa tìm được con đường chân chính nhất để ứng xử với lễ hội bởi chúng ta hiểu về lễ hội còn quá mù mờ, chưa nắm được bản chất sâu xa của các lễ hội. Chính vì vậy mà những thực hành nghi lễ đã bị biến tướng, trần tục hóa, thương mại hóa làm cho vẻ đẹp của lễ hội bị phai nhạt. Lật lại lịch sử cho thấy không chỉ bây giờ các lễ hội mới có những yếu tố phản cảm, bạo lực mà khi miêu thuật về hội Gióng những năm đầu TK XX tác giả Nguyễn Văn Huyên đã nhận thấy trong lễ hội có yếu tố bạo lực: “Cho nên, trong trận đánh chẳng gây nên chút thiệt hại vật chất nào thì chính những chiếc chiếu này có khi lại làm đổ máu”(7). Như vậy, ngay từ thế kỷ trước đã xuất hiện diễn ngôn phê phán lễ hội là bạo lực, tranh giành, cướp lộc. Chỉ có điều những diễn ngôn phê phán đó được ít nói đến, biết đến vì điều kiện tiếp nhận thông tin thời kỳ trước không nhanh chóng và thuận lợi như bây giờ. Trong thời đại truyền thông công nghệ số như hiện nay, cho dù chúng ta ngồi ở nhà, không đi dự hội thì những gì xảy ra tại hội Gióng, hội chùa Hương, lễ phát ấn đền Trần… đều được báo chí, truyền thông đưa tin kịp thời. Qua phát ngôn của các nhà báo (những người có quyền phát ngôn và được nhân dân tin tưởng), qua cảm nhận của những người tham gia lễ hội, những người tiếp nhận thông tin (công chúng) cũng mã hóa thông điệp đó gần giống như vậy.

 Khi báo chí phê phán lễ hội càng nhiều thì người dân đổ về tham gia lễ hội càng đông. Điển hình là lễ hội đền Trần, Nam Định, một trong các lễ hội thành công cả về mặt quảng bá và tính thương mại. Cho dù báo chí phê phán công tác tổ chức lễ hội nhưng lượng người đổ về tham gia và lấy ấn chưa bao giờ giảm. Báo chí đã phản ánh đúng thực trạng diễn ra tại các lễ hội nói chung và lễ phát ấn đền Trần nói riêng. Xét về góc độ xã hội chúng ta cần có một cái nhìn toàn diện và nhân văn hơn về những hiện tượng được đề cập qua diễn ngôn báo chí. Những yếu tố tiêu cực xuất hiện trong lễ hội chính là một phần của xã hội, nó đang phản ánh hiện thực mặt bằng văn hóa Việt Nam. Chúng ta vẫn bắt gặp cảnh chen lấn, xô đẩy không chỉ ở các lễ hội mà ở ngay trên những con đường văn minh hiện đại của thủ đô Hà Nội. Nơi những người dân được coi là thanh lịch, văn minh vẫn không ngừng chen lấn từng cm trên đường, vẫn sẵn sàng văng tục, thậm chí là thượng cẳng chân hạ cẳng tay nếu có va chạm. Nói cách khác, người dân chính là sản phẩm của thời đại. Những diễn ngôn báo chí về lễ hội đã phản ánh gần như chính xác mặt bằng văn hóa Việt Nam.

 Mặt khác, nhìn từ góc độ những người làm truyền thông có thể thấy trong xu hướng thương mại hóa hoạt động báo chí, các tờ báo cũng phải cạnh tranh để tăng số lượng phát hành, tăng quảng cáo. Phải chăng báo chí đã tìm đến độc giả bằng cách đánh trúng tâm lý tò mò, hiếu kỳ của người dân qua hàng loạt từ ngữ gây cảm giác mạnh như: cướp lộc, càn quét, xô đẩy, chặt, chém, tranh giành, chen lấn... khiến ai chưa từng đi hội thì phải cố đi một lần, ai đã từng đến rồi thì năm sau lại cố đi thêm lần nữa.

Từ lý thuyết phân tích diễn ngôn cho thấy các phát ngôn đó đều thể hiện ý thức hệ tư tưởng thời đại, của chính quyền, của cơ quan quản lý văn hóa. Với người dân chúng ta phê phán là mê tín, quá tin vào thần thánh, tin vào các lực lượng siêu nhiên. Bởi vậy trong các văn bản quản lý nhà nước về lễ hội, trong các diễn ngôn báo chí (công cụ tuyên truyền) đã nhấn mạnh cần phải thay đổi nhận thức của người tham gia lễ hội thì mới giảm bớt được sự hỗn loạn phản cảm tranh giành, bạo lực đang diễn ra. Về phía cơ quan quản lý, đơn vị tổ chức lễ hội cũng cần mạnh tay, quản lý chặt công tác tổ chức chắc chắn sẽ dẹp bỏ được những hành vi tiêu cực, phản cảm trong lễ hội.

Báo chí là một kênh quan trọng, có ảnh hưởng to lớn trong việc thay đổi nhận thức của người dân. Nhưng thực tế, phân tích diễn ngôn báo chí cho thấy một bộ phận người làm báo hiện nay chưa hiểu hết các thực hành nghi lễ, hành vi trong các lễ hội. Bởi vậy những người làm báo cũng cần được trang bị kiến thức một cách hệ thống để tránh tình trạng nhiễu loạn trong việc đưa thông tin. Bên cạnh đó, mỗi nhà báo phải luôn trau dồi phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, không bị chi phối bởi tính thương mại hóa trong hoạt động báo chí, không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố quyền lực, vật chất. Chỉ như vậy khi nhà báo phát ngôn, viết bài mới mang tính khách quan, không gây nhiễu loạn thông tin cho công chúng.

_______________

1, 7. Nguyễn Văn Huyên, Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, 2003, tr.31, 27.

2. Nguyễn Hồng Phong, Xã thôn Việt Nam, tái bản, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2005, tr.204.

3. Toan Ánh, Nếp cũ hội hè đình đám, quyển thượng, tái bản, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr.7.

4. Lê Hồng Lý, Vai trò của nhà nước đối với lễ hội dân gian hiện nay, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 6, 2014, tr.3.

5. Tác giả khảo sát và phân tích các bài viết trên 3 báo in là Nhân dân cuối tuần, Tuổi trẻTiền phong từ năm 2010 – 2015.

6. Tác giả khảo sát các bài viết về lễ hội trên 2 trang báo mạng điện tử là VietnamnetVnexpress năm 2014 – 2015.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 396, tháng 6-2017

Tác giả : LẠI THỊ HẢI BÌNH

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *