Hòa Bình là một trong số những vùng đất cổ của Việt Nam, địa bàn cư trú lâu đời và tập trung đông nhất của dân tộc Mường (chiếm 62% dân số toàn tỉnh và 1/2 dân số tộc người Mường cả nước). Cùng các cộng đồng tộc người anh em, đồng bào Mường đã tạo nên những giá trị văn hóa đặc sắc trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc. Gia đình người Mường là môi trường bảo tồn, trao truyền và làm sống lại nhiều yếu tố văn hóa truyền thống có giá trị.
1. Giá trị cơ bản trong gia đình Mường truyền thống
Theo tập tục truyền thống, trong gia đình người Mường, mối quan hệ giữa cha mẹ và các con tương đối bình đẳng. Con phải có hiếu, phải kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng và vâng lời cha mẹ. Cha mẹ có trách nhiệm chăm lo nuôi nấng, giáo dục, truyền đạt kinh nghiệm sản xuất, các nghề thủ công, kỹ năng làm công việc trong gia đình cho con. Cha mẹ uốn nắn con từ lời ăn tiếng nói, cách ứng xử trong gia đình đến cộng đồng. Trong xã hội truyền thống, gia đình người Mường thực hiện nhiều chức năng quan trọng, tác động rất lớn đến sự phát triển xã hội, đến tư tưởng và ý thức tộc người.
Người Mường quan niệm nhà có đông con là nhà có phúc, nên trong gia đình người Mường, bình quân 5-6 người/1 hộ gia đình. Lý giải vấn đề này phải xuất phát từ góc độ kinh tế, điều kiện vật chất của gia đình. Lao động giản đơn, dựa vào sức người là chính, nên người Mường cần có nhiều nhân lực trong hoạt động sản xuất. Khát vọng muốn có đông lao động sản xuất đã tác động đến việc hạ tuổi kết hôn và tăng tỷ lệ sinh tại mỗi gia đình.
Ngoài động cơ muốn đông con để thỏa mãn nhu cầu nhân lực lao động sản xuất, còn có tâm lý để khi về già có các con phụng dưỡng, đồng thời cũng để phòng ngừa trước những rủi ro bệnh tật. Họ quan niệm điều bất hạnh nhất đối với mỗi cặp vợ chồng là không có con trai và đó chính là nguyên nhân các cặp vợ chồng ly dị nhau. Hầu hết các gia đình Mường đều mong sinh được con trai, nếu sinh toàn con gái cũng bị coi là bất hạnh. Chế độ phụ hệ đã được xác lập, sau hôn nhân, cô gái cư trú ở nhà chồng, vì vậy, người ta thường quý con trai, còn con gái bị coi là thành viên tạm thời trong gia đình, không thể là nơi nương tựa của cha mẹ khi về già.
Gia đình người Mường là gia đình phụ quyền, tính chất gia trưởng thể hiện rõ trong quan hệ gia đình. Người đàn ông là chủ sự gia đình, có vai trò, quyền lực lớn trong cuộc sống. Đồng thời, họ còn là người thay mặt gia đình quan hệ với làng xóm, họ tộc, các tổ chức xã hội và chính quyền địa phương. Mọi tài sản trong nhà đều do người chủ gia đình nắm giữ, kể cả ruộng, nương, trâu bò, công cụ sản xuất. Những tài sản đó chỉ có con trai cả đảm đương mọi công việc, người cha chỉ đóng vai trò cố vấn, hoặc tham gia giải quyết những vấn đề quan trọng và đối ngoại, còn các công việc khác, đặc biệt là kinh tế, do con cái lo liệu.
Mối quan hệ này lấy chuẩn mực là chữ hiếu, nghĩa là con cái phải biết yêu quý, chăm sóc, phụng dưỡng và nghe lời cha mẹ. Với cha mẹ, con cái là của cải, niềm an ủi, hạnh phúc. Cha mẹ dành nhiều công sức, tâm huyết vào việc nuôi nấng, giáo dục, truyền đạt cho con cái những kinh nghiệm sản xuất, chăn nuôi, các công việc gia đình và lo liệu chu toàn đến lúc các con lấy vợ, lấy chồng. Trong hoạt động kinh tế, các con luôn chia sẻ nỗi vất vả của mẹ cha. Con trai, con gái nếu lao động được đều tham gia làm việc cùng cha mẹ, nhỏ tuổi thì làm những công việc nhỏ, lớn thì cùng gánh vác việc lớn. Khi cha mẹ về già, con cái có trách nhiệm nuôi dưỡng. Thường thì cha mẹ già ở với con cả, nhưng không vì thế mà những người con khác lơ là trách nhiệm với cha mẹ. Tuy đã ở riêng nhưng các cặp vợ chồng con cái của những người em đều thường xuyên đến thăm hỏi, chăm sóc bố mẹ, đóng góp của cải , vật chất cho anh trưởng. Khi cha mẹ mất mọi người con đều có trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp lễ vật và tổ chức đám tang chu đáo, trọng thể.
Anh, chị em ruột thịt sống có trách nhiệm với nhau phản ảnh rõ qua thành ngữ: Anh em như dòng nước dù có chém cũng không đứt, dù chặt cũng không lìa (chém kha đác chăng lôi, choi kha đác chăng lìa). Tập quán Mường quy định người anh phải đối xử tốt và luôn luôn dạy dỗ các em, ngược lại em phải phục tùng các anh. Anh em ruột sống có trách nhiệm với nhau và yêu thương nhau. Nếu cha mẹ qua đời, anh cả chịu trách nhiệm nuôi dưỡng, lo dựng vợ gả chồng cho các em. Người Mường không có cảnh anh em cãi lộn nhau, tranh giành, phân chia của cải khi bố mẹ qua đời.
Trong xã hội truyền thống, người phụ nữ hầu như không có quyền hành gì lớn trong gia đình. Khi còn nhỏ, họ chịu sự quản lý của cha mẹ hoặc anh cả. Khi có chồng, mặc dù là con trong gia đình, nhưng họ không được tham dự vào việc chia tài sản của gia đình bố mẹ đẻ. Xã hội Mường xưa còn quy định lệ thu lụy (còn gọi là thu lụt – thu lụyk) áp dụng cho những gia đình sinh toàn con gái, lúc cha mẹ qua đời, ruộng, đất bị thu hồi lại chia cho nhà khác. Không chỉ thu riêng mảnh đất, nhà lang còn thu cả con dao của người đã khuất. Người phụ nữ khi lấy chồng đồng nghĩa với việc bước vào cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc chồng, không có quyền bình đẳng trong mọi lĩnh vực của đời sống. Bên trong ngôi nhà cũng có sự phân chia khu vực rõ ràng cho các giới. Gian khách (gian voóng) để bàn thờ tổ tiên, còn là nơi tiếp khách, chỗ ngủ của nam giới. Phụ nữ trong thời gian mang thai, ở cữ tuyệt đối không được bước chân đến gian này. Họ bị coi là những người không được sạch sẽ, dễ làm uế tạp bàn thờ.
Trên thực tế, người phụ nữ lại có đóng góp nhiều mặt vào cuộc sống gia đình và lao động sản xuất. Theo phân công lao động tự nhiên, nam giới thường đảm nhiệm những công việc nặng nhọc nhất như: cày bừa, chặt cây, chế tạo công cụ sản xuất, xây dựng nhà ở và các công việc đối ngoại. Khi hoàn thành công việc họ có thể nghỉ ngơi thanh thản. Trong khi đó, phụ nữ ngoài việc tham gia lao động sản xuất, họ còn phải làm nhiều việc liên quan đến cuộc sống gia đình. Thực tế khối lượng công việc mà phụ nữ đảm nhận không hề ít so với nam giới.
Sản xuất nông nghiệp, dù loại hình canh tác chính là làm ruộng nước, song họ còn làm nương rẫy, ở mỗi công đoạn từ phát nương, nhổ mạ, chăm sóc đến gặt hái đều có sự tham gia của phụ nữ. Vào thời vụ, mỗi ngày người phụ nữ Mường phải trực tiếp tham gia lao động sản xuất 11 – 12 giờ, còn thời gian lao động trung bình trong năm khoảng 10 giờ/ngày. Trong lao động thủ công nghiệp, phụ nữ cũng giữ vai trò chính như dệt, may…
Công việc nội trợ, phụ nữ đóng vai trò chủ yếu, họ thức khuya, dậy sớm lo cơm nước, giặt giũ. Phụ nữ Mường ra khỏi nhà thường đeo chiếc ớp (giỏ bằng tre đan) bên hông, để đựng rau rừng. Chiếc ớp không chỉ là vật dụng quan trọng trong cuộc sống mà nó còn có giá trị làm duyên dáng thêm cho vẻ đẹp phụ nữ. Cách phân công đó gắn liền với nội dung xác định về vị trí, quyền lực của người cha, người mẹ trong gia đình và ngoài xã hội – nam ngoại, nữ nội.
Người Mường cũng có tục hút thuốc lào (khoẳn lao) nhưng có khác biệt là: nam giới điếu riêng, nữ giới dùng điếu riêng, không được dùng chung. Con dâu không được ăn chung mâm, uống rượu cần chung phe (chung ngàn) với bố, chú, cậu, bác, anh bên họ nhà chồng, không được ngồi bàn công việc với chồng và bố chồng, khi lên nhà chỉ được đi cầu thang dành cho phụ nữ, đi qua trước mặt bố chồng không được buông váy xòa ra mà phải rất ý tứ giữ cho váy khép lại người hơi cúi xuống, khi bố chồng chuẩn bị đi ngủ con dâu phải mắc màn, trải chiếu, không được đi ngủ trước các thành viên khác trong gia đình, buổi sáng con dâu phải dậy sớm hơn mọi người. Con rể không được ngồi chung mâm khi uống rượu cần với mẹ, cô, dì và chị bên họ nhà vợ. Sự kiêng kị này khắt khe tới mức sợ trời phạt. Trường hợp đặc biệt là đám tang thì sự ăn uống có thể ngồi lộn xộn cho qua bữa. Nguồn gốc của sự khắt khe này có lẽ xuất phát từ quan niệm không được tạo ra sự gần gũi, thoải mái trong sinh hoạt giữa những đối tượng trên để khỏi dẫn tới sự bỗ bã, nể nang trong giao tiếp, làm giảm phần kính trọng, tôn ti trật tự trong gia đình.
Xưa cũng như nay, người Mường coi con dâu như con gái, việc đối xử với con dâu cũng bình đẳng như con gái, không có sự phân biệt đối xử hà khắc mẹ chồng – con dâu như người Kinh. Theo tục lệ của người Mường, con dâu về nhà chồng đi đến cầu thang được hơ lửa, mẹ chồng múc nước rửa chân cho con dâu, đỡ cái nón cắp vào nách dẫn con dâu bước vào nhà (1). Người Mường có câu: Con gái con của người ta con dâu con của trong nhà. Thời kỳ đầu khi thấy mình có dấu hiệu của việc mang thai, người phụ nữ phải nói cho chồng hoặc mẹ chồng biết để nhận được sự giúp đỡ, trao truyền kinh nghiệm trong việc bảo vệ thai nhi. Mẹ chồng chỉ bảo con dâu và con trai những kinh nghiệm trong việc bảo vệ thai nhi, mách bảo các loại thuốc nam, rễ cây rừng cùng các tập quán, nghi lễ liên quan đến sinh đẻ. Sản phụ được sự hướng dẫn kinh nghiệm trực tiếp từ bà đỡ hoặc mẹ chồng từ cách ngồi, lấy hơi như thế nào cho dễ đẻ.
Đặc biệt trong đám tang của người Mường có điệu múa quạt ma (điệu múa của các nàng dâu), một hình thức múa tín ngưỡng. Tham gia múa quạt là tất cả các con dâu trong gia đình người chết. Điệu múa này còn gọi là tế quạt ma, từ khi xảy ra đám tang cho đến lúc đưa người chết về nơi yên nghỉ, nhằm tỏ lòng thương tiếc và yêu quý người đã chết, dâu hiền quạt mát cho linh hồn người chết thanh thản ở cõi bên kia.
2. Biến đổi văn hóa gia đình Mường trong nền kinh tế thị trường
Hiện nay dưới sự tác động mạnh của nền kinh tế thị trường và tiến trình hội nhập, toàn cầu hóa, nhiều giá trị văn hóa truyền thống trong gia đình người Mường đang có những biến đổi theo hướng tích cực.
Quy mô gia đình hiện nay giảm còn 4 – 6 người/1 hộ, mặc dù tỷ lệ này vẫn còn cao so với một số tộc người khác, nhưng đây cũng là sự tiến bộ. Khác với xưa, các cặp vợ chồng trẻ hiện nay đã bắt đầu suy nghĩ đến số con và chất lượng cuộc sống. Họ mong muốn sinh đẻ ít con và hướng tới nuôi con ăn học. Vì vậy, thế hệ trẻ của người Mường hiện đều mong muốn dừng ở 1 đến 2 con.
Việc giáo dục con cái trước đây chủ yếu trong phạm vi gia đình, mỗi thành viên cha mẹ, anh chị, ông bà có những đóng góp nhất định để hình thành nhân cách con người. Ngày nay, gia đình của người Mường đã được nhà trường hỗ trợ về mặt kiến thức, số trẻ em đến trường học ngày càng nhiều từ tiểu học, trung học đến cao đẳng, đại học.
Tính gia trưởng của người đàn ông là chủ gia đình đang dần được thay thế bởi sự bàn bạc, chia sẻ giữa vợ và chồng, từ việc dạy dỗ, chăm sóc con cái đến việc quyết định phương hướng sản xuất kinh doanh, đầu tư vốn, phân công lao động, mua bán vật tư sản xuất đến việc bán các sản phẩm của gia đình.
Khoảng cách bất bình đẳng giữa nam và nữ đang dần được xóa nhòa, vai trò của phụ nữ ngày càng được đề cao. Ngoài thời gian tham gia sản xuất và làm công việc nội trợ hàng ngày, người phụ nữ Mường cũng đã bắt đầu tham gia các hoạt động xã hội. Những người phụ nữ có kiến thức, học vấn, giao lưu rộng rãi với xã hội ngày càng nhiều. Quan hệ giữa các thành viên không còn bó cứng như trước đây. Vai trò và địa vị của mỗi thành viên trong gia đình tăng lên cùng với khả năng lao động của họ.
Có thể thấy, những biến đổi trong văn hóa gia đình người Mường ở Hòa Bình phần lớn theo hướng tích cực. Những yếu tố cốt lõi của văn hóa gia đình như: nuôi dạy con cái kính trọng lễ phép với người lớn tuổi, chăm sóc hiếu kính với cha mẹ… của đồng bào Mường vẫn còn được lưu giữ.
Trong nền kinh tế thị trường, gia đình người Mường cũng gặp những tác động tiêu cực.
Nhiều giá trị văn hóa truyền thống đang có nguy cơ bị xâm hại và dần mai một đi. Các mối quan hệ truyền thống trong gia đình vốn tốt đẹp và bền vững ngày càng trở nên lỏng lẻo; phong cách ứng xử giữa các thành viên trong gia đình trở nên khô khan, thiếu văn minh; nhiều quan điểm, cách sống, lối sống xa lạ, lệch chuẩn đang được manh nha, đặc biệt là trong lớp trẻ; xu hướng chạy theo lối sống thực dụng, sùng bái đồng tiền, đề cao lợi ích cái nhân vô tình đã quay lưng lại với các giá trị truyền thống trong gia đình. Lớp trẻ người Mường hiện nay khi giao tiếp bên ngoài thường ngại nói tiếng nói của tộc người mình, ngại mặc trang phục truyền thống của tộc người.
Một trong những biểu hiện xuống cấp của đạo đức truyền thống trong hôn nhân và gia đình là xuất hiện tình trạng bạo lực gia đình, hiện tượng ly hôn. Đây là vấn đề đáng cảnh báo vì trong văn hóa truyền thống gia đình người Mường chuyện ly hôn, cãi cọ mâu thuẫn trong gia đình hầu như là không có.
Các chức năng cơ bản của gia đình, đặc biệt là giáo dục các chuẩn mực đạo đức, lối sống và khuôn mẫu hành vi ứng xử trong gia đình và xã hội… đang giảm sút. Qua khảo sát tại bản Mỗ 2 (Giang Mỗ) huyện Cao Phong tỉnh Hòa Bình, có 120 hộ gia đình thì 80% những người trong độ tuổi lao động đi làm bên ngoài còn việc chăm sóc, dạy dỗ con cái lại chủ yếu là vai trò của ông bà, những người lớn tuổi trong gia đình.
Ngày nay, do nhịp sống của xã hội phát triển và cơ chế thị trường đang cuốn hút các thành viên trong gia đình vào vòng xoáy của cơn lốc kiếm tiền, làm giàu mà sao lãng vai trò chia sẻ, quan tâm, chăm sóc và giáo dục con cái; phó mặc vai trò đó cho nhà trường và xã hội, hoặc chỉ quan tâm đến kết quả học tập về mặt kiến thức ở trường, chưa thực sự quan tâm giáo dục đạo đức, lối sống. Điều đó cũng dễ lý giải rằng tại sao những năm gần đây, nhiều vấn đề bức xúc, tiêu cực đã nảy sinh và lan rộng trong xã hội mà đôi lúc chúng ta không thể kiểm soát nổi. Đó là hệ quả của sự lãng quên hoặc từ bỏ nhiều giá trị văn hóa truyền thống trong gia đình.
3. Giải pháp giữ gìn và phát huy văn hóa gia đình Mường
Cần nhận thức rõ rằng, giáo dục các giá trị văn hóa truyền thống trong gia đình có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ các thành viên trong gia đình tránh được các tệ nạn xã hội; là nền tảng để thể hệ trẻ xác định được đâu là giá trị đích thực, văn minh, tiến bộ cần tiếp thu, học hỏi và đâu là tiêu cực, lai căng đi ngược với xu thế văn minh, tiến bộ; là cơ sở để thế hệ trẻ xây dựng nhân cách mới, hợp với xu thế hiện đại, nhưng không quay lưng với truyền thống.
Thời gian qua, nhiều chiến lược, chính sách liên quan đến công tác xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc đã được ban hành; các nhà khoa học xã hội cũng đã nói nhiều tới việc phải giữ gìn bản sắc riêng biệt, độc đáo của mỗi dân tộc, trong đó đề cao việc giữ gìn và phát huy bản sắc, tính bền vững của văn hóa gia đình. Đến nay, truyền thống văn hóa, cũng như văn hóa gia đình, chưa được thống nhất, xem đâu là cái lạc hậu, bảo thủ không hợp với xu hướng hiện đại, tiến bộ của xã hội cần phải được loại bỏ, lên án. Vì vậy, để có được sự thống nhất chung trong việc lựa chọn những giá trị truyền thống để truyền dạy cho thế trẻ trong gia đình, nhà trường và xã hội thì nhất thiết phải có một khung lý luận, phương pháp luận và những tiêu chuẩn cụ thể để xem xét, đánh giá những gì nên giữ lại, phát huy, những gì nên loại bỏ.
Những năm gần đây nội dung giáo dục văn hóa truyền thống trong gia đình đã được tích hợp và lồng ghép giáo dục trong nhiều môn học ở nhà trường. Tuy nhiên, nhiều chỉ báo xã hội học đã khẳng định một điều đáng buồn: “sự hiểu biết các giá trị truyền thống cứ giảm dần theo từng nhóm tuổi từ cao xuống thấp”. Vì vậy, để nhà trường trở thành một cơ sở giữ gìn và giáo dục có hiệu quả truyền thống văn hóa, thì nhất thiết phải đẩy mạnh các hoạt động giáo dục văn hóa truyền thống phù hợp với tâm lý, tình cảm của từng lứa tuổi; thông qua các hoạt động ngoại khóa, các hội thi, hội diễn văn hóa, văn nghệ dân gian truyền thống, phong trào hướng về cội nguồn, đền ơn đáp nghĩa, nhằm tạo môi trường thuận lợi để các em tự tiếp thu, tự hiểu và tự nguyện giữ gìn bản sắc văn hóa của tộc người.
Cần có chiến lược cụ thể nhằm phát triển các hình thức và phương tiện truyền thông. Nghiên cứu, lựa chọn những vấn đề truyền thông có nội dung phong phú, hiện đại, trong đó có lồng ghép những giá trị văn hóa truyền thống phù hợp với những đòi hỏi của công cuộc xây dựng con mới, xã hội mới nhằm định hướng cho sự phát triển nhận thức, nhân cách và các giá trị văn hóa trong gia đình, xã hội.
Có chiến lược xây dựng và phát triển các khu vui chơi giải trí lành mạnh, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động kiểm tra, quản lý các sản phẩm văn hóa; tăng cường các phong trào nêu gương người tốt, việc tốt, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng của phong trào xây dựng gia đình văn hóa; có chính sách hợp lý hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình, giáo dục nâng cao dân trí;…
Cần gắn các giá trị truyền thống với việc xây dựng ý thức pháp luật. Trong xã hội Mường tinh thần cố kết giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ, làng bản đã thành truyền thống. Đây là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của người Mường, nhưng nó cũng là một khó khăn trong quá trình xây dựng con người công dân tôn trọng kỷ cương phép nước. Sự kết hợp đó không chỉ tôn trọng, khuyến khích các gia đình giữ gìn giá trị ttruyền thống tốt đẹp mà còn giúp cho các gia đình phát triển kinh tế, thực hiện các chính sách của Nhà nước, tạo điều kiện xây dựng gia đình hạnh phúc, ấm no, tiến bộ.
Cần có những chính sách cụ thể nhằm khai thác những giá trị văn hóa truyền thống trong mối tương quan giữa kinh tế – văn hóa – xã hội, bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống nhưng phải thực hiện nếp sống văn minh, tích cực truyên truyền pháp luật, phổ biến Luật hôn nhân và gia đình, kế hoạch hóa gia đình, xóa bỏ quan niệm cũ không phù hợp với xã hội đương đại.
Không có một nền văn hóa nào đang tồn tại mà không dựa vào văn hóa truyền thống. Việc lưu giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình người Mường hiện nay góp phần duy trì một gia đình ổn định, một cộng đồng đoàn kết hướng về cội nguồn dân tộc. Giá trị văn hóa truyền thống trong gia đình của người Mường: quan hệ hôn nhân hạnh phúc tôn trọng thứ bậc trên dưới, tôn trọng người già, yêu thương trẻ nhỏ được thể hiện trên ba mối quan hệ cơ bản: đạo cha con, vợ chồng và anh em, cần được giữ gìn và phát huy trong bối cảnh mới.
_______________
1. Đặng Trọng Nghĩa, Gia đình truyền thống với việc xây dựng gia đình văn hóa mới của người Mường, Luận văn Thạc sĩ văn hóa học, 2005.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 357, tháng 3-2014
Tác giả : Nguyễn Thị Kim Hoa
Bài viết cùng chủ đề:
Tác động của nghề cơ khí và mộc dân dụng đối với đời sống văn hóa làng đại tự
Tư tưởng về đạo đức môi trường ở phương đông
Kiến thức văn hóa của nhà báo, thiếu và sai