Hành trình đi tìm bản ngã trong văn xuôi việt nam đương đại


Cảm quan hậu hiện đại có sức lan tỏa và ảnh hưởng mau lẹ trên toàn cầu khiến con người nhắc nhiều đến sự tan vỡ niềm tin, sự khủng hoảng chân lý. Giờ đây, những trải nghiệm bản thân quan trọng và có ý nghĩa hơn kinh nghiệm được truyền lại. Kiếm tìm trở thành một đặc thù thuộc về bản chất con người. Trong tác phẩm Hoàn cảnh hậu hiện đại, Lyotard cho rằng: “Chúng ta đang sống trong một thế giới mà hiện thực đã bị mất ổn định đến độ không còn đảm bảo chất liệu nào cho kinh nghiệm nữa, nhưng lại có đủ cho việc tìm tòi và thử nghiệm” (1). Tâm thức hậu hiện đại đang hình thành “reo mừng trước sự giải thể của một hiện thực duy nhất và sự trỗi dậy của vô vàn khả thể cho việc tìm tòi những luật chơi mới, những phương thức nghệ thuật mới mang tính thử nghiệm” (2). Ở Việt Nam, đời sống kinh tế còn khó khăn, thời đại công nghiệp chưa đến, con người Việt Nam còn mải miết với những vấn đề mưu sinh thường nhật nên trạng thái hậu hiện đại còn ít nhiều xa lạ. Tuy nhiên, nằm trong sự thống nhất của thế giới phẳng, chịu tác động của xu hướng toàn cầu hóa, người Việt Nam đã bước đầu cảm nhận thấy sự bất ổn của cuộc sống và trong chính bản thân mình. Điều đó đã thúc đẩy con người bước vào hành trình kiếm tìm bản thân mình.

Có thể nói, tìm lại chính mình và được sống là mình đã trở thành một nỗi ám ảnh lớn đối với các nhà văn nhiều thời đại. Nhưng không đơn giản chỉ là sự trở về với quá khứ, với cội nguồn, mà mục đích của các cuộc hành trình là tìm đến bản ngã. Họ là những cánh diều bị đứt mất sợi dây nối với mặt đất khiến nó chao đảo, vô phương hướng. Những con người bị tách khỏi quá khứ và hiện tại, sống như một ốc đảo chơi vơi. Họ sinh ra phi lý: không hiểu được mình sống như thế nào, sống vì cái gì, lý do gì cho sự tồn tại của mỗi cá nhân?

Chủ đề sự kiếm tìm trong văn chương hiện đại coi những cuộc hành trình như một yếu tố đảm bảo cho sự sinh tồn. Nhân vật kiếm tìm bản thể được coi như một yếu tố cấu trúc nên nhiều tác phẩm văn xuôi đương đại. Sự kiếm tìm có thể nảy sinh từ nhu cầu của nhân vật nhưng cũng do sự thúc đẩy những yếu tố khác. Hành trình đi tìm bản ngã xuất phát từ những con đường khá đa dạng: tìm chân lý trong hiện thực, bằng tâm tưởng, thậm chí đi theo tiếng gọi của vô thức. Mỗi con đường tìm kiếm sẽ có lực lượng cản trở khác nhau, điều đó sẽ quy định những cách thức khám phá riêng của từng nhân vật. Độc giả theo dõi từng bước đi của nhân vật sẽ thấy mình đang tham dự một trò chơi. Nhân vật không được miêu tả về hình dáng, giới thiệu về bản thân trong khi lại có những lời “dôi ra” không cần thiết, kéo dài, nhấn vào hoặc gây tò mò. Nhân vật không định hình bản chất, thuộc mẫu người không hoàn kết. Chúng tự phô diễn cái tôi giống như một mê cung. Nhân vật phi lịch sử, thuộc vùng chập chờn khó nắm bắt, như người trượt đi trong một chiếc hang sâu hun hút, phi trọng lượng, phi thời gian và không gian. Mọi thứ xung quanh anh ta đều ở thể nghi vấn; những hồi tưởng xen ngang dòng hiện tại và quá khứ. Cuộc sống từ quá khứ đến hiện tại của nhân vật chỉ là một đường tịnh tiến mờ nhòe.

Hành trình đi tìm nhân vật là hành trình tôi đi tìm tôi là cuộc hành hương muôn thuở của con người trên hành trình về với chính mình. Nhân vật kiếm tìm trong tâm tưởng trôi theo dòng ý thức phải nhắc đến nhân vật tôi trong Chinatown (Thuận), Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Vũ Nguyên trong Cuộc đời dài lắm (Chu Lai)…. Kiếm tìm quá khứ đã qua sẽ gặp lực lượng cản trở là trình tự tuyến tính của thời gian. Cái đã mất thuộc phạm trù quá khứ, khát vọng kiếm tìm thuộc phạm trù hiện tại, còn cuộc kiếm tìm thuộc về tương lai. Nhân vật lựa chọn con đường đi phi tuyến tính để vượt qua tính trình tự của thời gian vật lý, do đó kiếm tìm bản ngã là xu hướng tất yếu của tâm lý con người.

Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thường sử dụng môtip các nhân vật ra đi kiếm tìm. Hành trình ấy, một mặt cũng thể hiện tinh thần hoài nghi, phủ nhận triệt để thực tại. Mặt khác, tất cả những khát vọng kiếm tìm một điều gì đó có nghĩa lý hơn đều dẫn đến thảm bại ê chề: Chương Con gái thủy thần ngã xuống biển, ông Gia đưa cháu tìm thày học chữ mong cho cờ tiến sĩ về tay, ai ngờ đứa cháu lại gây ra nghiệp chướng (Giọt máu)… Thực tại không những không được cải tạo mà thậm chí còn có chiều hướng bất như ý, con người trở thành nạn nhân của hoàn cảnh và của chính mình.

Cuộc trải nghiệm đi tìm cái chết của An Mi (Và khi tro bụiĐoàn Minh Phượng) là hành trình khẳng định sự tồn tại. Khi cận kề với cái chết và cát bụi, hư vô, An Mi đã tìm lại được ký ức. Đó không chỉ là cội nguồn, quê hương mà còn là sự thực, là chính bản thân cô. Trong Mưa ở kiếp sau, Kỳ Mai cũng mang đầy ám ảnh về thân phận. Cô sống trong sự hoài nghi, day dứt về sự thật bị ẩn dấu. Người con gái lớn lên không quê hương, luôn khát khao có một người cha băng qua con đường và màn mưa để đến với mình.

Những cuộc kiếm tìm trong vô thức khiến nhân vật không xác định được nội dung, mục đích, hành động của mình. Họ thực hiện những hành động tìm kiếm ngoài vòng kiểm soát của ý thức, bị dẫn dắt bởi tiềm thức. Trong văn xuôi đương đại, quá khứ là những gì con người không thể quên, không thể để mất đi. Dù quá khứ có đau đớn đến thế nào thì nó vẫn là chất keo dính từng cá thể với cuộc đời. Khi người ta thay đổi nó để sống thỏa hiệp với hoàn cảnh, nghĩa là đã đánh mất đi chính bản thân, trở thành lạc lối và vô nghĩa. Cuối cùng, họ vẫn phải tìm lại chính mình như là cách duy nhất để tồn tại. Kết thúc quá trình đi tìm bản thể, nhân vật thường nhận thức được sự mất mát và ngộ ra một chân lý về cuộc sống. Mỗi người sẽ cảm nhận lẽ phải theo cách riêng sau những trải nghiệm của bản thân. Nhìn chung, những điều mà họ ngộ ra bao giờ cũng đi ngược lại với những gì mong đợi trước khi bước vào cuộc hành trình. Kiếm tìm, như vậy, đồng nghĩa với phá hủy niềm tin, hình thành chân lý mới trên cơ sở kinh nghiệm cá nhân.

Nhân vật chính xưng tôi trong Tưởng tượng và dấu vết (Uông Triều) được tái hiện qua một thế giới tâm lý – tâm linh đầy những hồi tưởng, dằn vặt, ẩn ức, mặc cảm, ám ảnh. Tác phẩm hiện ra như một bản khảo trạng nội tâm phức tạp, một tiểu tự sự về nội tâm và khát vọng cá nhân của con người. Cái vô tận của thế giới khách quan được thay thế bằng cái vô tận của tâm hồn. Mang trong mình giấc mộng văn chương, đam mê và tội lỗi, ngọt ngào và bi kịch, tôi không thể thoát ra nỗi ám ảnh từ quá khứ, mặc dù trong ý thức, anh luôn muốn lãng quên. Cuộc đấu tranh âm thầm, không khoan nhượng giữa lí trí, ý thức và vô thức, tiềm thức, một vòng luẩn quẩn không lối thoát. Câu chuyện về cuộc đời và số phận của cá nhân tôi bỗng hóa thành câu chuyện của nhân sinh trong hành trình đi tìm ý nghĩa và giá trị của tồn tại và bản thể.

Nhà phân tâm học Sigmund Freud cho rằng, cô đơn thuộc trạng thái “tinh thần bất an”, sự “lo sợ phập phồng”. Cách hiểu của ông bắt gặp cách lý giải của nhà thơ Tây Ban Nha Octavio Paz khi ông này nhận định cái cô đơn là đặc trưng cuối cùng của thân phận con người. Như vậy, có thể thấy, cô đơn là cảm giác tự bản thể, tự cội nguồn của riêng con người. Nó là thuộc tính cố hữu thẳm sâu của con người tồn tại khi chưa đặt con người vào các mối quan hệ xã hội. Vì vậy, cô đơn là trạng thái tâm lý con người cảm thấy lẻ loi, đơn chiếc khi bị cắt đứt các sợi dây liên hệ với cộng đồng. Cảm thức cô đơn xuyên suốt trong sáng tác của nhiều nhà văn: F. Kafka, W. Faulkner, G. Market, M. Proust, I. Calvino, H. Murakami…

Nguyễn Huy Thiệp coi cô đơn là một năng lực người. Hầu hết các nhân vật trong truyện ngắn của ông, những con người có ý thức về cuộc sống, về giá trị người đều cảm thấy cô đơn đến tột cùng. Dựa theo quan niệm sống, theo giá trị nhân cách nhân vật, độc giả nhận thấy những kiểu cô đơn khác nhau của con người trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp: kiểu cô đơn của những người anh hùng, kiểu cô đơn nghệ sĩ và nỗi lòng đơn chiếc của những con người bé nhỏ. Nỗi cô đơn của những nhân vật anh hùng: Đề Thám, Gia Long, Đặng Phú Lân, Sạ, Lò Văn Pành, ông tướng về hưu… bao giờ cũng được phát biểu trực tiếp, dường như cô đơn gắn liền với định mệnh của họ. Gia Long cô đơn trong chính trò chơi đế vương do mình đặt ra. Nỗi cô đơn của Đề Thám làm cho ông thoát khỏi cái xác lẫm liệt của lịch sử để làm một “phần sinh linh vừa bé mọn, vừa cô đơn, bất lực” (Mưa Nhã Nam). Còn ông Thuấn (Tướng về hưu) thì đau đớn thốt lên “Sao tôi cứ như lạc loài?”. Những nhân vật ấy đã từng đứng trên tầm cao vinh quang giờ đang rơi xuống hố sâu của sự cô đơn.

Nguyễn Huy Thiệp thể hiện một quan niệm mới về hiện thực và con người mang tâm thức thời đại: sự đổ vỡ niềm tin, tình trạng bất lực của con người. Với kiểu cô đơn nghệ sĩ, ông không chỉ thể hiện tâm thức thời đại mà còn là sự trải nghiệm của cá nhân với nghề. Nhà văn cụ thể tư tưởng này thành hình tượng Tú Xương, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Trương Chi, những thi sĩ mang dáng dấp Nguyễn Bính, Đồng Đức Bốn và hàng loạt nhân vật nghệ sĩ khác. Nhà văn để cho nhân vật của mình phát biểu một cách trực tiếp: “Tôi mơ hồ nhận thấy rằng những nghệ sĩ trác tuyệt là những con người cô đơn khủng khiếp” (Tướng về hưu). Cô đơn khủng khiếp, đó là định mệnh trớ trêu dành cho nghệ sĩ muôn đời. Tú Xương từ đầu đến cuối thiên truyện cứ một mình giữa đám đông “thõng tay đi vào chợ” (Thương cho cả đời bạc). Hồ Xuân Hương thì “mặc áo xô gai đang nức nở khóc cho nỗi cô đơn mênh mang của kiếp người” (Chút thoáng Xuân Hương), Nguyễn Du thì “mặt nhàu nát vì đau khổ”, mênh mang một nỗi cô đơn, gửi vào những bài ca u buồn mà những cô kĩ nữ như cô Cầm sẽ hát (Vàng lửa). Chàng Trương Chi, khi được là mình thì không có bầy đàn, khi có bầy đàn thì không được là mình. Tiếng khóc của Trương Chi là nỗi đau của người nghệ sĩ dù chấp nhận hành trình độc sáng nhưng cũng không nguôi cảm giác xót xa, thương cho thân phận đơn độc của mình…

Ở Việt Nam, dù khoa học kỹ thuật chưa phát triển đến mức khiến cho thế giới của mỗi người chỉ còn tồn tại qua chiếc máy vi tính, nhưng nỗi lo âu về nó đã ám ảnh những trái tim mẫn cảm. Tinh thần hậu hiện đại thấm sâu qua kiểu nhân vật này. Các nhân vật dường như đều ngại giao tiếp, có đối thoại mà không có giao cảm, ngôn từ đối thoại rời rạc, vô hồn, độc thoại nội tâm thì đầy day dứt, tra vấn. Cảm thức cô đơn là dấu hiệu sự phân rã của các quan hệ người. Nó vừa thể hiện ý thức sâu sắc của nhà văn về thực tại đời sống, vừa phản tỉnh con người. Nguyễn Huy Thiệp đã nắm bắt trạng thái tinh thần thời đại: sự mất niềm tin, cảm giác lạc loài, vong thân, tâm trạng hồ nghi tồn tại và nỗi bất an của con người.

Thủ pháp dòng ý thức bộc lộ rõ nét trong các tác phẩm thông qua nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật cô đơn. Dòng ý thức chảy tràn trong tâm thức nhân vật, qua các bến bờ của nỗi đau, niềm thức nhận và sự đốn ngộ… Những trải nghiệm sâu sắc và chân xác về cuộc đời của nhân vật trong Khải huyền muộn của Nguyễn Việt Hà chủ yếu được thực hiện qua những cuộc phiêu du tâm tưởng. Hành trình tìm đến sự mặc khải trong tâm hồn, từ đó giúp anh tìm ra chân lý, tìm ra con đường diệt trừ cái ác, giành lại cho chính mình hạnh phúc, tình yêu và một cuộc sống đích thực không phải là bằng con đường theo nghĩa thực của nó. Chính những cuộc phiêu du tâm tưởng đã giúp nhân vật Kiên (Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh), nhân vật tôi (Và khi tro bụi Đoàn Minh Phượng), ông Ba (Tấm ván phóng dao Mạc Can)… đi đến cái đích cuối cùng trên hành trình sống. Cách thể hiện sinh động trạng thái tinh thần của nhân vật trong Khải huyền muộn đã cho phép Nguyễn Việt Hà bộc lộ cảm quan đời sống của con người thời hiện đại, xem đời sống như một sự hỗn loạn, như những mảnh vỡ, tâm thế hồ nghi tồn tại, đánh mất lý tưởng, loay hoay vô hướng, cõi nhân sinh thiếu vắng tình người.

Nhân vật tôi trong Đi tìm nhân vật (Tạ Duy Anh) hướng về hồi ức tuổi thơ, bị ám ảnh oan hồn chim bồ câu và cả những giọt máu trên đệm năm nào, thoắt cái lại nhảy sang chuyện tiến sĩ N, tiếp đến là sự băn khoăn về cái chết của cậu lính trẻ hồi ở chiến trường. Trạng thái tinh thần của nhân vật tôi là “phi trọng lượng, phi thời gian, phi ký ức”. Tất cả chìm vào trong một hố đen đầy hoang mang với cái bản thể của hiện tại trên hành trình đi tìm nhân vật của nhân vật tôi liên tục bị lấn sân bởi đường ngang quá khứ đến hiện tại. Mặc dù vậy, chúng lại liên tục bị đứt gãy giữa cái đã và đang. Sự đảo lộn trình tự thời gian cộng với việc nhân vật cũng mơ hồ về không gian khiến hành trình kết nối sự kiện trở thành những đường gấp khúc, đứt đoạn và cách quãng…

Dòng ý thức miên man của nhân vật tôi trong Thế giới xô lệch (Bích Ngân) phản chiếu những nhân vật khác xung quanh tác phẩm như một bức tranh đa màu của cuộc sống. Những nhân vật xung quanh qua dòng tâm tư của nhân vật tôi đã bước ra từ trang văn đến cuộc đời thật. Tác giả đã dẫn dắt người đọc đi qua những trang tiểu thuyết chỉ với một ngôn ngữ nội tâm duy nhất của anh thương phế binh. Những nhân vật trong truyện theo dòng ý thức của nhân vật tôi đã lần lượt bước ra để làm nổi bật cái thế giới xô lệch và cái giới hạn của chính mình.

Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư có sở trường miêu tả nỗi cô đơn bản thể của những con người nhỏ bé trong xã hội. Cô cũng như những con người trong cánh đồng bất tận, sống giữa nhiều người, trong cộng đồng và giữa biển người mênh mông nhưng luôn có cảm giác bị bỏ rơi. Nhân vật cô đơn trên hành trình tìm kiếm cái đẹp, cô đơn khi đi tìm hạnh phúc cho bản thân trong một biển người mênh mông mà nhìn đâu cũng thấy người xa lạ, khoảng cách, thậm chí thấy xa lạ với cả chính người thân trong gia đình. Dẫn dắt tâm tưởng của độc giả đến với vô vàn những điều phi thực, không thể cắt nghĩa được bằng tư duy thuần túy bình thường, hành trình của nhân vật mở ra một ý niệm mới về sự dấn thân, sự tìm kiếm bản ngã khi con người đối diện với nỗi cô đơn bản thể. Nhân vật sống giữa hai thế giới: thế giới thực và thế giới của những giấc mơ bất tận, thế giới của hiện tại và thế giới quá vãng mù xa của hiện thực lịch sử và tâm linh con người. Nhân vật được xây dựng theo kiểu phân thân trong một thế giới đa tạp, phân mảnh.

Với tiểu thuyết Sông, Nguyễn Ngọc Tư đã gửi gắm vào nhân vật khát vọng kiếm tìm, khát khao được sống là chính mình. Đây không phải là một chuyến thám hiểm sông Di đơn thuần mà chính là chuyến truy tìm bản thể của mỗi người để trả lời câu hỏi mang đậm chất hiện sinh: “Ta là ai, sao ta là ai mà không là họ, sao ta ở đây với những người này mà không cùng người khác”. Với xã hội hiện đại, con người luôn đứng trước nguy cơ nhòe mờ nhân thân. Hình ảnh con người luôn xuất hiện trong trạng thái đi tìm căn cước. Nhân vật chính xuất hiện trong truyện là Ân, mở đầu câu chuyện, anh sắp xếp đồ đạc để chuẩn bị cho chuyến du khảo tới thượng nguồn sông Di, hoàn thành cuốn ký sự mà sếp giao phó. Ngoài ra, anh còn có mục đích cá nhân, đó chính là ra đi với hy vọng học được cách quên. Nhưng trên hành trình ấy, ý định ban đầu của Ân đã vô tình biến mất. Chuyến đi này đã giúp anh tìm kiếm được những chân lý thuộc về bản ngã mà chính anh chưa bao giờ nghĩ tới. Sông của Nguyễn Ngọc Tư chỉ khoác tấm áo của một tiểu thuyết du khảo. Cái đích nhà văn muốn hướng đến chính là khát vọng kiếm tìm của mỗi cá nhân. Họ ra đi vì lẽ sống, mong muốn khẳng định sự tồn tại của mình, tìm cách vượt lên sự vô nghĩa, trống rỗng, tầm thường và tẻ nhạt của cuộc đời. Với kiểu nhân vật trên hành trình kiếm tìm bản thể, nhà văn thể hiện quan niệm mới về hiện thực và con người. Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời sống mang tính lịch sử nhất định nào đó.

Như vậy, văn xuôi Việt Nam đương đại đang có những bước chuyển biến tích cực trên nhiều phương diện. Sự thể nghiệm kỹ thuật viết và sự bổ sung những đề tài, chủ đề mới đã làm cho bức tranh đời sống văn học thêm đa dạng, là dấu hiệu của tính dân chủ và hiện đại. Thông qua chủ đề và kiểu nhân vật đi tìm bản thể, các nhà văn đã nỗ lực đổi mới mô hình phản ánh hiện thực. Từ đó, người đọc thêm tin tưởng vào sức sống và dấu ấn riêng của văn xuôi Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa văn hóa và sẵn lòng chờ đợi những nhà văn tài năng mượn ngọn gió cuộc đời để mở ra những trang viết mới.

______________

1, 2. J. F. Lyotard (Ngân Xuyên dịch), Hoàn cảnh hậu hiện đại, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2010, tr.18-19,21.

 

Nguồn : Tạp chí VHNT số 376, tháng 10-2015

Tác giả : NGUYỄN ĐỨC TOÀN

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *