Thái Bình, một tỉnh ven biển thuộc vùng châu thổ Đồng bằng sông Hồng, là vùng đất ở nơi đầu sóng, ngọn gió, ba mặt sông, một mặt biển. Trong suốt chiều dài lịch sử, cư dân Thái Bình phải thường xuyên chống chọi với thiên tai, địch họa . Hoàn cảnh ấy góp phần hình thành, hun đúc nên truyền thống bất khuất, cần cù, thông minh, sáng tạo của người dân Thái Bình trong chiến đấu, lao động, sản xuất. Truyền thống hiếu học, đỗ đạt khoa bảng cũng là nét nổi bật trong văn hóa Thái Bình. Mảnh đất này là nơi hội tụ của nhiều luồng cư dân từ các vùng miền khác nhau về đây sinh sống, khai phá đất đai, lập làng, lấy việc trồng lúa nước làm phương thức sống chủ yếu và mang theo những phong tục, tập quán sinh hoạt văn hóa (1). Chính những yếu tố đó đã tạo cho Thái Bình có một kho tàng di sản văn hóa vô cùng phong phú, đa dạng và giá trị.
Một trong những thành tố trong kho tàng di sản văn hóa đó là các di tích lịch sử văn hóa, những bằng chứng xác thực, cụ thể về đặc điểm lịch sử, văn hóa của một dân tộc. Ở đó chứa đựng tất cả những gì thuộc về truyền thống tốt đẹp, kỹ năng, kỹ xảo và trí tuệ của con người. Các di tích lịch sử văn hóa chính là những thông điệp của quá khứ được thế hệ trước trao truyền cho thế hệ sau, ở đó người ta đã cảm nhận được quá khứ, và từ đó tìm đến với truyền thống lịch sử, những giá trị đạo đức, thẩm mỹ, tín ngưỡng, tâm linh. Trên cơ sở truyền thống lịch sử, các thế hệ đi sau tiếp nối và sáng tạo những giá trị văn hóa mới (2).
Tính đến năm 2015, toàn tỉnh Thái Bình có tổng số 2.539 di tích, đã và chưa được xếp hạng, trong đó đậm đặc nhất là ở các huyện Hưng Hà (667 di tích), Thái Thụy (447 di tích), Quỳnh Phụ (351 di tích), Vũ Thư (298 di tích),… Thống kê cho thấy, Thái Bình là tỉnh có số lượng di tích khá lớn nhưng mật độ di tích phân bố ở các huyện không đồng đều. Di tích tập trung dày đặc ở ba huyện là Hưng Hà, Thái Thụy và Quỳnh Phụ với 1.495 di tích, chiếm trên 50% tổng số di tích toàn tỉnh. Trong khi đó thành phố Thái Bình chỉ có 85 di tích (3).
Tỉnh có 2 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt, là di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Keo (huyện Vũ Thư) và di tích lịch sử Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần (Hưng Hà). 151 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, trong đó chủ yếu là các di tích thuộc loại hình kiến trúc nghệ thuật, tập trung nhiều nhất ở các huyện Hưng Hà (29 di tích), Thái Thụy (29 di tích) và huyện Đông Hưng (23 di tích). Nghiên cứu kết quả xếp hạng di tích cho thấy Thái Bình có nhiều di tích kiến trúc nghệ thuật vào thời Lê, sau đó được trùng tu và xây dựng lại vào thời Nguyễn. Vì vậy trong quyết định xếp hạng, các di tích này được xác định có niên đại vào thời Lê – Nguyễn. Đó là những công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị tiêu biểu, cần được quan tâm trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích cấp quốc gia.
Thái Bình hiện có 595 di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh, trong đó huyện Hưng Hà có 109 di tích, Đông Hưng có 91 di tích, Quỳnh Phụ có 92 di tích, Thái Thụy có 88 di tích, Tiền Hải có 68 di tích, Kiến Xương có 57 di tích, Vũ Thư có 62 di tích và thành phố Thái Bình có 28 di tích.
Theo tư liệu thống kê của Ban Quản lý di tích tỉnh Thái Bình, hiện nay toàn tỉnh còn 1.791 di tích chưa được xếp hạng. Trong số đó có nhiều di tích ở các loại hình khác nhau như: đình, chùa, đền, miếu, cổng làng, lăng mộ, nhà thờ họ, nhà thờ công giáo, văn chỉ. Đa số những di tích này đều mới được tu sửa hoặc khởi dựng vào cuối thời Nguyễn. Tới đây, cơ quan quản lý di tích sẽ tiến hành khảo sát lập hồ sơ khoa học cho từng di tích này, xác định giá trị của từng di tích để đề nghị Nhà nước và tỉnh Thái Bình xếp hạng, tạo cơ sở pháp lý trong việc bảo vệ, bảo tồn và phát huy các giá trị của di tích. Bên cạnh đó, căn cứ vào số lượng các di tích đã được xếp hạng, cơ quan quản lý di tích đồng thời lập quy hoạch tổng thể hệ thống di tích trên địa bàn tỉnh Thái Bình theo tinh thần của Nghị định 70/NĐ-CP năm 2012. Đây sẽ là cơ sở cho các kế hoạch, dự án bảo quản, tu bổ phục hồi từng di tích, nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững các di sản văn hóa của tỉnh, phục vụ tốt mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần nâng cao đời sống văn hóa cho cộng đồng cư dân địa phương và khách tham quan du lịch.
Ở góc độ phân loại loại hình, Thái Bình có ba loại hình di tích cơ bản là di tích lịch sử, di tích kiến trúc nghệ thuật và di tích khảo cổ và loại hình nào cũng có những công trình rất giàu giá trị về lịch sử và văn hóa. Có thể kể đến các di tích khảo cổ thuộc vùng đất Ngự Thiên xưa, nay là huyện Hưng Hà, nơi có hành cung Ngự Thiên được xây dựng từ TK XII, di chỉ của nghề đúc đồng An Lộng (xã Quỳnh Xá, Quỳnh Phụ), di chỉ của thành Kỳ Bố Hải Khẩu (thành phố Thái Bình, thời kỳ Trần Lãm, TK X), lăng Trần Thủ Độ (xã Liên Hiệp, Hưng Hà), lăng Thái Bảo, tướng triều Trần, Đỗ Tử Bình (xã Hồng Việt, Vũ Thư), lăng mộ An Hạ Vương và phu nhân (xã Đông Quang, Đông Hưng), lăng Phạm Huy Đĩnh (xã Chương Dương, Đông Hưng). Đặc biệt là khu phế tích của nhà Trần thuộc địa phận xã Tiến Đức (Hưng Hà), có quy mô rất rộng, tập trung chủ yếu ở làng Tam Đường. Đây là khu lăng tẩm của nhà Trần và hành cung Long Hưng dưới triều Trần. Một số di tích lịch sử nổi bật như khu lưu niệm đồng chí Nguyễn Đức Cảnh tại quê hương Thái Thụy, di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại xã Tân Hòa (Vũ Thư), di tích Cơ sở in của Xứ ủy Bắc Kỳ năm 1930 ở xã Đình Phùng,… Những di tích lịch sử này đang phát huy vai trò tích cực trong công tác giáo dục truyền thống cho các thế hệ.
Loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật chiếm số lượng nhiều nhất trong hệ thống di tích lịch sử văn hóa ở Thái Bình với 770 ngôi chùa, 666 đình làng, 343 đền, 332 miếu phủ, 295 từ đường và phần còn lại là những Văn chỉ, nhà thờ Công giáo, công trình kiến trúc dân gian khác… Đây là loại hình di tích thu hút đông đảo nhất sự quan tâm thăm viếng của không chỉ cư dân địa phương mà còn của du khách thập phương, đặc biệt vào các kỳ lễ hội. Không thể không nhắc đến chùa Keo (Thần Quang Tự), tọa lạc tại xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt năm 2012. Chùa là một trong 10 kiến trúc cổ tiêu biểu và là một trong ba ngôi chùa tiêu biểu của Việt Nam. Diện tích khu chùa hiện nay còn khoảng 38.000m2 (dài 300m, rộng 125m), quan nhiều lần trùng tu, hiện vẫn còn tấm bia đá rất lớn, có khắc năm Chính Hòa thứ 10 (1689). Chùa hiện có 17 tòa với 128 gian. Một điều khá độc đáo, chùa có gác chuông 3 tầng cao 12m, được làm hoàn toàn bằng gỗ lim. Bên trong chùa cón lại hàng nghìn mảng chạm khắc rất độc đáo, có giá trị nghệ thuật cao (4). Đình An Cố (xã Thụy An, huyện Thái Thụy), được xây dựng vào thời Lê với 2 tòa, 10 gian, quy mô kiến trúc rất hoành tráng. Tòa tiền tế có 7 gian, rộng 250m2, sức chứa tới hàng nghìn người; Tòa hậu cung rộng 3 gian, còn lưu giữ rất nhiều mảng chạm khắc mang tính nghệ thuật cao. Trong các mạng chạm khắc có tới hàng trăm con rồng, con hổ và vô số linh vật khác. Có mảng chạm khắc về khung cảnh lao động sản xuất rất sinh động. Đây là một kiến trúc nghệ thuật đình tiêu biểu nhất ở Thái Bình (5).
Đình Đá (xã An Hiệp, huyện Quỳnh Phụ) với diện tích 200m2, 2 tòa, 10 gian, được xây dựng hoàn toàn bằng đá. Đình có 5 vì kèo cầu, 20 cột, 14 đầu dư, hệ thống xà liên kết. Các cột hiên bằng đá xẻ vuông (32x32cm), cao 2,65m. Các cột cái tròn bằng đá, đường kính 50cm, đứng trên tảng đá thắt cổ bồng cao 50cm; Trên thân cột chạm rồng leo, đầu rồng nối với các đầu dư, được cách điệu ngậm hạc. Các vì kèo là những tảng đá lớn, kết cấu hình tam giác chạm trổ họa tiết hổ phù, mây cuộn, phượng hàm thư, văn triện kỷ hà. Các xà thượng, xà hạ liên kết với các vì kèo, cột bằng các mộng thắt. Liên kết cột và các chân tảng bằng các ngõng đá. Đặc biệt là cửa võng nối với hậu cung thuộc gian chính tẩm cũng bằng đá và là một tác phẩm điêu khắc tuyệt tác với họa tiết tứ quý, tứ linh sống động như bức tranh vẽ trên giấy. Đền Đồng Bằng (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ) là một ngôi đền có quy mô kiến trúc lớn nhất Thái Bình, được xây dựng trên diện tích 6.000m2 với 13 tòa, 66 gian, có hàng trăm mảng chặm khắc nghệ thuật. Các bức cuốn thư, đai tự, cửa võng được chạm khắc rất sinh động và được sơn son, thếp vàng (6).
Đền Tiên La (xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà) tọa lạc trên khu đất rộng 400m2. Ngôi đền có quy mô lớn, đẹp lộng lẫy về cả thế và vóc dáng, bao gồm nhiều công trình như hệ thống cổng đền, tòa tiền tế, tòa trung tế (cột kèo bằng đá) tòa thượng điện và tòa hậu cung. Tòa điện, bái đường của đền được kiến trúc bằng vật liệu gỗ tứ thiết. Nội thất được chạm trổ công phu với các nội dung có tính kinh điển như Long, ly, quy, phượng đan xen với thông, cúc, trúc, mai, theo phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Đền Đồng Xâm (xã Hồng Thái, Kiến Xương) là một quần thể kiến trúc gồm 12 công trình lớn nhỏ với 40 gian được xây dựng trên diện tích khoảng 1.000m2. Đền có nhiều mảng chạm khắc nghệ thuật tinh xảo, điều khác biệt là bức hoành mã trước cửa đền hết sức hoành tráng và sinh động. Miếu Hai Thôn (xã Hiệp Hòa, huyện Vũ Thư) thờ bà Đỗ Thị Khương là vợ của Lý Bí. Miếu được đại tu vào năm 1680, là một trong các công trình kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu nhất ở Thái Bình. Miếu gồm 3 tòa, 11 gian. Trước sân xây cuốn thư cổ, cổng hoành mã. Hiện phía trước của hai tòa đều đánh bạo kép, ngưỡng kép, chấn phong thượng hạ, các mảng cánh gà hồi hiên chạm lõng 3 tầng rồng lửa. Tường sau, hồi tả, hồi hữu đều đắp đố lụa bằng gỗ lim. Các đồ tế khí đời Lê, các cổ khám rất lớn, những cỗ ngai đồ sộ chạm lõng 5 tầng đủ các đề tài trúc long, long cuốn, long ổ… Tất cả đều sơn son, thếp vàng. Đặc biệt, miếu còn lưu giữ bức tranh cổ được vẽ vào nửa cuối TK XVII, cao 1,6m, rộng 2,2m, miêu tả vua Tiền Lý Nam Đế và Hoàng hậu một cách sinh động.
Thực trạng của các di tích ở tỉnh Thái Bình có thể phân chia thành các nhóm. Nhóm một là các di tích còn tốt. Hầu hết các di tích còn tốt đều là những di tích có niên đại muộn, chủ yếu vào thời Nguyễn và trên thực tế tình trạng của các di tích này đều nằm trong chế độ bảo quản, chưa phải áp dụng kỹ thuật tu bổ, thay thế. Những di tích thuộc nhóm này về cơ bản giữ nguyên được các yếu tố gốc từ khi xây dựng cho tới nay. Cá biệt có một vài di tích đã xuất hiện sự xâm hại của rêu, nấm mốc, mối mọt… Vì vậy, trên thực tế, loại di tích thuộc nhóm một chỉ cần áp dụng các chế độ bảo quản thường xuyên như chống mối, chống mọt, diệt rêu và nấm mốc…. Nhóm hai la các di tích đã có hiện tượng xuống cấp, đã được lập dự án tu bổ, tôn tạo giai đoạn 2010 – 2015. Nhóm ba gồm các di tích xuống cấp trầm trọng hoặc trong tình trạng là phế tích. Đây là những di tích cần được ưu tiên về kinh phí để tu bổ, chống xuống cấp khẩn cấp nhằm tránh nguy cơ bị mất vĩnh viễn trước tác động xấu của các yếu tố khách quan.
Thái Bình là một vùng đất cổ và giàu truyền thống văn hóa. Trải qua quá trình hình thành và phát triển, nơi đây đã tích tụ những giá trị quý báu mang đậm bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Việc nghiên cứu giá trị của hệ thống di tích lịch sử văn hóa của tỉnh Thái Bình đồng thời đánh giá tốt thực trạng và tình trạng kỹ thuật tại các di tích sẽ góp phần giúp công tác quản lý di tích lịch sử văn hóa đạt hiệu quả hơn. Từ đó, thực hiện tốt công tác bảo tồn và phát huy giá trị của hệ thống di tích lịch sử văn hóa ở địa phương, phục vụ cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
_______________
1. Nhiều tác giả, Địa chí Thái Bình, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2010.
2. Bùi Duy Lan, Đất và người Thái Bình, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2003.
3. Ban quản lý di tích Thái Bình, Báo cáo công tác quản lý di tích lịch sử văn hóa, 2015.
4, 5, 6. Nhiều tác giả, Di tích lịch sử văn hóa Thái Bình (tập 1), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1999.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 381, tháng 3-2016
Tác giả : NGUYỄN TRI PHƯƠNG
Wiki : https://vi.wikipedia.org/wiki/Di_t%C3%ADch_Vi%E1%BB%87t_Nam
Bài viết cùng chủ đề:
Bảo tồn văn hóa si la trong bối cảnh hiện nay
Giữ gìn văn hóa truyền thống tộc người tày ở thái nguyên
Vai trò của người dân trong bảo tồn giá trị quan họ làng vân khám