Theo số liệu tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân số Brâu ở Việt Nam là 397 người, hầu hết cư trú tại làng Đắc Mế, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum. Số liệu điều tra của chúng tôi tháng 4-2011, thì ở làng Đắc Mế, tộc người Brâu có 110 hộ gia đình, trong đó có 41 người là dâu, rể thuộc thành phần dân tộc khác đến cư trú sau hôn nhân. Như vậy, người thuộc thành phần tộc người Brâu là 356 người (1). Là tộc người có dân số ít, song người Brâu vốn có nền văn hóa rất phong phú và đa dạng. Hôn nhân truyền thống của họ chứa đựng nhiều nét văn hóa độc đáo, thể hiện qua khuôn mẫu ứng xử và hệ giá trị xã hội cộng đồng.
1. Quan niệm truyền thống về hôn nhân
Theo quan niệm của người Brâu, trai, gái 12, 13 tuổi được coi là trưởng thành, tuy nhiên họ phải trải qua một sự kiện luật tục quan trọng, đó là lễ cà răng (uốt pưng) và căng tai (síp tiêu), nghi lễ thành đinh nguyên thủy. Sau khi làm lễ cà răng, căng tai, người đó mới coi là trưởng thành và được tự do tìm kiếm bạn tình. Nếu trai, gái không hoàn thành nghi lễ này, thì bị dư luận chê cười, bạn bè khinh rẻ và không “bắt được vợ được chồng”. Như vậy, cà răng là một nghi thức, chuẩn mực, khuôn mẫu về cái đẹp. Dưới góc độ tâm linh, người Brâu cho rằng: những người không cà răng thì khi chết đi, linh hồn không về được với thế giới ông bà, tổ tiên.
Lễ cà răng được tổ chức vào dịp nông nhàn cho những người cùng độ tuổi và theo nghi thức tập thể, do những người thạo việc đảm trách. Người ta dùng hòn đá để mài dần 4 chiếc răng cửa hàm trên cho mòn sát đến tận lợi. Cà răng vô cùng đau đớn, người được cà răng phải có một niềm tin tâm linh và sự ràng buộc của luật tục. Sau khi cà răng, người Brâu đắp vào lợi một loại nhựa cây rừng làm cho vết thương mau lành và tránh nhiễm trùng.
Việc căng tai của nữ là cả một quá trình lâu dài. Từ lúc 1-2 tuổi, trẻ em nữ đã được xâu lỗ tai để đeo khuyên. Người phụ nữ Brâu dùng hai loại khuyên tai. Loại thông thường được làm bằng ống nứa gọi là tiêu, loại có giá trị hơn được làm bằng ngà voi, gọi là bloóc. Khi mới xâu lỗ tai, các cô gái Brâu đeo một mẩu tre nhỏ rồi thay bằng những đôi khuyên tai to dần lên, to đến mức làm cho đôi dái tai bị đứt hẳn. Theo quan niệm của họ, đây là niềm vui, niềm vinh dự lớn đối với bản thân, gia đình cũng như cộng đồng. Nếu cà răng là tín hiệu bắt đầu yêu đương, thì đứt tai là đánh dấu cả một quá trình lâu dài, gắn với sự trưởng thành của người phụ nữ.
2. Quy tắc trong hôn nhân
Một trong những quy tắc cơ bản trong hôn nhân truyền thống của người Brâu là ngoại hôn dòng tộc, nội hôn tộc người. Theo đó, trai gái trong một dòng tộc phải từ đời thứ 3 trở lên mới được kết hôn với nhau. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có ghi chép được quan hệ hôn nhân ở đời thứ ba của hai anh em ruột ông Thao A Jong và Thao Tô. Đó là Nàng Reng và Nàng K’li (cháu đời thứ ba) gọi Thao A Jong (dòng anh) kết hôn với Thao Cheo và Thào U (cũng cháu đời thứ ba) của Thào Tô (dòng em).
Qua mối quan hệ hôn nhân của một nhánh đại diện của 3 đời giữa 2 dòng của tộc người Brâu, ta nhận thấy không có biểu hiện hôn nhân trong cùng một dòng huyết thống mà chỉ có hôn nhân giữa các nhánh, thuộc hai dòng anh và em ở đời thứ 3. Đó là hôn nhân con chú – con bác. Mối quan hệ hôn nhân này tuy có, song chiếm số ít, còn đại đa số là mối quan hệ hôn nhân ngoại dòng tộc.
Người Brâu cư trú ở vùng ngã ba biên giới tiếp giáp 3 nước Việt Nam, Lào và Campuchia; đặc biệt trong làng có sự cư trú đan xen các thành phần dân tộc như Mường, Kinh, Thái, Nùng… do đó, tạo ra một mối quan hệ xã hội rất rộng mở. Đây là cơ sở phát triển mối quan hệ hôn nhân hỗn hợp giữa người Brâu với các tộc người khác không chỉ trong phạm vi quốc gia mà xuyên biên giới sang Lào và Cămpuchia.
Như vậy, mối quan hệ hôn nhân của dân tộc Brâu rất đa dạng theo mô thức vừa hỗn hợp vừa chồng xếp tạo ra các thế hệ mới có sự pha trộn về dòng máu.
3. Hình thức và tính chất của hôn nhân
Trong hôn nhân, người con trai Brâu hoàn toàn chủ động, nhưng lễ cưới lại được tổ chức tại nhà gái. Sau lễ cưới, chàng rể ở lại luôn nhà bố mẹ vợ. Nếu xét tính chủ động, ta có thể xem ở đây mang yếu tố phụ quyền, bởi cũng giống như một số tộc người khác, chàng trai “bắt vợ” về làm dâu nhà mình. Chàng trai Brâu đi “bắt vợ” nhưng lại bị nhà gái “bắt rể” ở lại luôn nhà vợ sau khi cưới. Điều đó càng rõ ràng hơn khi chàng trai phải chấp nhận hình thái cư trú theo nguyên tắc luân phiên. Chàng rể ở lại nhà vợ, sau 3 – 4 năm mới xin phép gia đình đưa vợ con về nhà mình và ở đó 3-4 năm, cứ như vậy, họ cư trú luân phiên ở cả hai bên gia đình, chỉ đến khi một trong hai bên cha mẹ chết hết, họ mới định cư ở một bên. Đây là một trong những yếu tố quan trọng để chỉ ra chế độ xã hội Brâu chuyển từ mẫu hệ sang phụ hệ hay phụ hệ chứa đựng nhiều yếu tố mẫu hệ.
Yếu tố giàu nghèo, môn đăng hộ đối trong hôn nhân của người Brâu khá mờ nhạt, tính chất mua bán không được đặt ra. Việc nhà trai nộp sính lễ cho nhà gái hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện, có sự chia sẻ hai bên. Tuy nhiên, trong lễ cưới, nhà trai phải có một số lễ vật tối thiểu như: heo, gà, rượu để dùng cho việc ăn uống của hai bên gia đình và cộng đồng. Bên cạnh đó, nhà trai phải chuẩn bị một số đồ dùng cho cô dâu như váy áo, vòng trang sức… tùy theo khả năng của gia đình.
4. Tiêu chuẩn chọn vợ chọn chồng
Tiêu chuẩn người vợ (chồng) lý tưởng của người Brâu là:
Người vợ phải là người phụ nữ chịu thương chịu khó, hiền lành, nết na, thạo công việc làm nương rẫy, lấy củi, giã gạo, biết nấu rượu, nuôi con và quán xuyến toàn bộ công việc gia đình.
Tiêu chuẩn người chồng là vui vẻ, tháo vát, cần cù và có tinh thần trách nhiệm với cộng đồng, sẵn sàng giúp đỡ mọi người, mọi nhà, phải thành thạo tất cả các công việc như làm rẫy, đi săn, dựng nhà, đan lát gùi, làm cối giã gạo. Đặc biệt phải có sức khỏe đảm bảo gánh vác công việc cho gia đình và tham gia các công việc của cộng đồng làng.
Như vậy, tiêu chuẩn người vợ (chồng) lý tưởng của dân tộc Brâu cũng không khác biệt hệ giá trị chung của các tộc người vùng Trường Sơn – Tây Nguyên, đó là: đạo đức, tinh thần trách nhiệm và giỏi giang công việc lao động sản xuất. Vấn đề sắc đẹp không coi là yếu tố quan trọng đảm bảo hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên, người con trai, con gái vừa tài, vừa sắc là hình mẫu lý tưởng được cộng đồng đề cao.
5. Tuổi kết hôn
Người Brâu lấy vợ, lấy chồng sớm, con trai 15-16 tuổi, con gái tuổi 13-14 đã tính đến chuyện hôn nhân. Nếu trai, gái từ 18 tuổi trở lên đã khó lấy vợ, lấy chồng và có thể coi như đã bị ế. Tiếp cận nghiên cứu người Brâu năm 1995, chúng tôi bắt gặp trường hợp Nàng San (1982) 13 tuổi, kết hôn với Đinh Văn Sắc (1975), tộc người Mường. Năm 1997, Nàng San đã sinh con gái được 1 tuổi. Đây không phải là trường hợp cá biệt mà rất bình thường đối với người Brâu. Và dĩ nhiên, những trường hợp này không làm thủ tục đăng ký kết hôn tại chính quyền địa phương.
6. Quan niệm về trinh tiết
Trai, gái Brâu tự do yêu đương, tìm kiếm bạn tình. Khi đã trao vòng hẹn ước, trai gái tự do quan hệ tâm hồn và thể xác. Vì thế, việc quan hệ tình dục trước hôn nhân không bị dư luận và luật tục lên án. Thông thường, khi con trai, con gái đến tuổi yêu đương, gia đình dựng chòi (nam đoóc) ở sau nhà hay ngoài bìa rừng để trai gái cùng nhau tự tình. Đêm đêm, chàng trai thường rủ bạn tình lên không gian riêng này để tâm sự và ngủ luôn tại chòi. Đây là thời gian để đôi trai gái tìm hiểu; nếu cuộc tình suôn sẻ, họ trở thành vợ chồng. Trường hợp không thành đôi lứa, họ lặng lẽ chia tay nhau và đi tìm bạn tình mới. Và dĩ nhiên, qua thời gian này, đôi trai gái không để lại hậu quả. Nếu cô gái có thai thì đôi trai gái phải thành vợ chồng sau khi chịu phạt theo luật tục.
Như vậy, do quan hệ tình dục trước hôn nhân không bị cấm đoán, nên trinh tiết không phải là vấn đề đạo đức, thước đo phẩm hạnh của người con gái trong hôn nhân. Tuy nhiên, chung thủy sau hôn nhân lại rất được coi trọng. Luật tục Brâu quy định người đàn ông có vợ, phụ nữ có chồng mà quan hệ tình dục với người khác thì bị cộng đồng lên án, chịu những sự dè bỉu về tư cách đạo đức và phải nộp phạt vạ rất nặng. Tuy nhiên, nếu có người nhận là cha đứa trẻ, thì họ thành vợ, thành chồng và mức độ xử phạt có thể nhẹ hơn, còn ngược lại, sẽ bị phạt nặng hơn.
Quan niệm về trinh tiết, quan hệ tình dục trước hôn nhân và việc dựng chòi cho trai gái tình tự của người Brâu cũng giống như việc “dựng lều cho con gái học yêu” của người Kreung ở Campuchia. Người Kreung ở Campuchia tin rằng việc quan hệ tình dục trước hôn nhân sẽ giúp củng cố quyền lực của phụ nữ, nên họ chủ động dựng những “túp lều tình yêu” để con gái mình tự do qua đêm với các chàng trai (2).
7. Các tàn dư hôn nhân nguyên thủy
Người Brâu có truyền thuyết Un cha đăk lếp, kể rằng: “…Trước kia, có một thời rừng núi bị cháy trụi, sau nước ngập, muôn loài chết hết, trên trái đất chỉ còn một người đàn bà và một con chó lấy nhau và đẻ ra một con trai. Người con trai sau lấy mẹ đẻ ra một người con gái. Người mẹ chết, người con trai lấy con gái của mình sinh ra loài người hiện nay”(3).
Môtip này chúng ta thấy cũng giống như một số tộc người khác như truyền thuyết: Đẻ đất đẻ nước, Quả bầu tiên… nói về thuở hồng hoang của loài người. Tiến thêm một bước nữa, người Brâu có hình thức hôn nhân anh em vợ, chị em chồng (tàn dư của hôn nhân nguyên thủy). Nghĩa là: khi người vợ chết, người chồng có thể kết hôn với em gái vợ (nhưng không chị vợ); hoặc anh trai chết thì em trai có thể kết hôn với chị dâu.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi thấy bắt gặp mối quan hệ hôn nhân anh em vợ (sororat): Ví dụ trường hợp Thao Thác (con trai Thào Kớt) lấy vợ là Nàng Giá sinh được 2 con trai. Khi Thào Thác chết, Nàng Giá lấy em trai của chồng là Thào Chanh (chị dâu lấy em trai chồng). Đây là tục nối dây, anh trai chết, em trai thay(4).
Bên cạnh đó là hôn nhân chị em chồng (levirat): Ví dụ trường hợp Ngàn Đắc lấy Thao Pô sinh được 2 trai, 1 gái. Khi Nàng Đắc chết, Thao Pô lấy em gái thứ ba của Nàng Đắc là Nàng Điêm (anh rể lấy em gái vợ). Đây là tục nối dây, chị gái chết, em gái thay(5).
Từ những dẫn chứng nêu trên, ta thấy trong xã hội cổ truyền của người Brâu còn tồn tại tàn dư của hộ nhân nguyên thủy, đó là hình thức hôn nhân anh em vợ, chị em chồng.
8. Trường hợp ly dị
Người Brâu khi đã thành vợ chồng, thường sống tương đối thuận hòa, ít cãi cọ hoặc bỏ nhau. Bỏ vợ, bỏ chồng chỉ xảy ra trong những trường hợp đặc biệt như người vợ (chồng) ngoại tình hoặc không có con cái hay trường hợp một trong hai người bỏ đi biệt tích.
Trường hợp người chồng ngoại tình, ít nhất phải chịu nộp phạt cho vợ một con heo và hai ghè rượu. Người vợ ngoại tình phải chịu nộp phạt gấp đôi số đó. Sau khi nộp phạt, thày cúng tạ lỗi với jàng và nếu người vợ hay người chồng đó chấp nhận tha thứ cho người kia thì vấn đề coi như giải quyết xong. Ngược lại, nếu một bên nhất quyết không chịu tha thứ thì cộng đồng phân xử cho hai người ly hôn, nhưng người vi phạm phải chấp nhận nộp phạt cho người kia một khoản tương đối lớn. Người chồng ngoại tình phải nộp cho nhà gái nặng nhất là trâu, bò, ít cũng là con heo khoảng 1 tạ, một bộ cồng chiêng, hai ghè rượu để cho nhà gái làm lễ cúng jàng và cộng đồng ăn phạt vạ. Nếu người vợ ngoại tình, vấn đề phức tạp hơn, nhà gái phải nộp cho nhà trai khoản bồi thường gấp đôi so với người chồng vi phạm.
Trường hợp ly hôn do không có con hay một trong hai người bỏ đi mất tích hoặc bỏ đi sống và làm ăn nơi khác, thì vấn đề đơn giản hơn nhiều. Người vợ, người chồng chỉ phải nộp cho làng một khoản lễ là một heo và ba ghè rượu để cộng đồng làm lễ cúng jàng và tuyên bố ly hôn. Hai người có thể đi lấy vợ, lấy chồng khác và tiếp tục đời sống riêng của mình.
9. Các trường hợp hôn nhân đặc biệt
Trường hợp đa phu
Xưa kia, dân tộc Brâu cũng có trường hợp phụ nữ lấy 2 chồng. Trên thực tế, trường hợp đa phu hiện nay không còn tồn tại trong cộng đồng Brâu, nhưng chúng tôi lại thấy nhiều trường hợp phụ nữ có nhiều đời chồng và rơi vào độ tuổi 80, hoặc 25-30 tuổi. Ở độ tuổi 50 không nghi nhận được trường hợp nào. Nhiều đời chồng không phải là đa phu mà là lấy chồng nhiều lần: chồng chết, bỏ chồng, chồng bỏ đi nơi khác. Có trường hợp, một phụ nữ lấy tới 3 đời chồng như bà Nhoar. Cũng như thế, hiện tượng một người đàn ông lấy tới 2 hoặc 3 đời vợ khá phổ biến (Thao Pem 2 đời vợ, Thào Khơi 3 đời vợ).
Có thể thấy trong quá khứ người Brâu có tồn tại hình thái hôn nhân đa phu, đến phụ nữ có nhiều đời chồng và hiện nay chuyển dịch sang hình thái người đàn ông có nhiều đời vợ (không phải đa thê). Nếu hình thái đa phu như trường hợp của Lang Chớp lấy cả hai chú cháu là Dạ Giơ Lương và Dạ Trơng làm chồng, có thể cho rằng đây là “dấu vết của hôn nhân quần hôn”(6). Thế thì khi đa thê chỉ còn trong quá khứ, người phụ nữ nhiều chồng ít đi và các trường hợp đàn ông nhiều đời vợ tăng lên, có thể chỉ ra hình thái hôn nhân của người Brâu chuyển dịch từ quần hôn, đa phu và chế độ gia đình mẫu hệ sang gia đình phụ hệ.
Hôn nhân với người góa
Hôn nhân và các nghi thức hôn nhân đối với người góa: trai chưa vợ lấy gái góa chồng, gái chưa chồng lấy trai góa vợ, hay hai người góa đến với nhau, luật tục không quy định khắt khe. Lễ cưới có thể tổ chức theo đúng nghi thức của cộng đồng hoặc đơn giản hơn tùy thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện kinh tế của gia đình đó. Tuy nhiên, người vợ (chồng) mới của người góa phải có lễ vật để nhờ thày cúng thông báo và xin phép hồn ma của người đã khuất cho mình được làm vợ (chồng) mới của người góa.
Hôn nhân với gái chửa hoang
Quan hệ tình dục trước hôn nhân của người Brâu không bị cấm đoán, thế nhưng, chửa hoang lại là việc vi phạm luật tục rất nặng. Người Brâu không chấp nhận gái chửa hoang, coi đó là việc xấu, gây hại tới cả cộng đồng. Do đó, không thấy trường hợp hôn nhân với gái chửa hoang. Trên thực tế rất ít trường hợp gái Brâu chửa hoang. Khi tìm hiểu vấn đề này, những phụ nữ Brâu cho biết họ có loại củ rừng rất hiệu nghiệm cho việc tránh thai; nếu như ăn một củ thì có tác dụng tránh thai trong một năm, hai củ là hai năm. Đây là câu chuyện bí mật, chỉ người phụ nữ mới biết theo cách mẹ truyền cho con gái (7).
10. Các nghi thức trong hôn nhân
Lễ dạm hỏi hay lễ trao vòng (đoók gia vư)
Trai, gái Brâu đến tuổi yêu đương tự do tìm kiếm bạn tình (cũng có khi do cha mẹ sắp đặt hoặc do mai mối tác hợp) khi tình yêu của họ đến độ chín muồi, chàng trai về thưa chuyện với cha mẹ. Việc đầu tiên gia đình phải làm là chọn người có tài ăn nói để làm ông mối.
Ông mối có nhiệm vụ thăm dò, tìm hiểu về gia đình cô gái và đánh tiếng, ướm hỏi chuyện trăm năm cho đôi lứa. Nếu thấy gia đình cô gái có vẻ ưng thuận, ông mối báo với nhà trai chọn ngày lành, tháng tốt, mang lễ vật gồm: rượu cần, heo, gà, thuốc hút sang nhà gái làm lễ làm lễ cầu hôn. Sau những lời trao đổi giữa người mai mối, gia đình nhà trai với nhà gái xung quanh chuyện tình duyên của đôi trai gái, gia đình nhà gái chấp nhận thì ông mối làm lễ cúng jàng (8). Sau đó, ông mối uống cang (9) rượu lễ đầu tiên, tiếp đến là cha mẹ hai bên gia đình và đôi trai gái cùng uống chung cang rượu lễ, trao vòng cho nhau với những lời hẹn ước trước sự chứng kiến của ông mối, hai gia đình và toàn thể cộng đồng. Khi trao vòng, đôi trao gái là của nhau, họ tự do quan hệ tâm hồn và thể xác.
Lễ cưới (nhét bơdoong me bơlo)
Lễ cưới của người Brâu được tổ chức tại nhà gái, nhưng vật chất do nhà trai chuẩn bị. Nếu là gia đình khá giả thì lễ vật là trâu, bò và nhiều rượu, ít thì cũng phải có heo, gà và rượu, đủ dùng cho hai gia đình và cả cộng đồng. Lễ cưới thường diễn ra trong 3 ngày.
Ngày thứ nhất, tất cả mọi người trong cộng đồng đến giúp chuẩn bị công việc cho lễ cưới của đôi trai gái. Người thì lấy măng, lấy củi, người gùi nước, nấu cơm…, đặc biệt, các gia đình đều đem đến rượu ghè để chung vui. Khi công việc chuẩn bị đã xong, ông mối (chủ lễ) chuẩn bị một con gà, một ghè rượu để làm lễ cúng trước sân nhà gái, thông báo với jàng biết việc gia đình và cộng đồng tổ chức lễ cưới cho đôi trai gái.
Cúng xong, ông mối uống cang rượu phép, trao cho chú rể, cô dâu mỗi người một cái đùi gà. Chú rể và cô dâu cùng uống chung cang rượu, đổi thức ăn cho nhau và hứa trước jàng, trước ông mối, gia đình hai bên và cộng đồng sẽ sống thủy chung và yêu thương nhau, xây dựng hạnh phúc trọn đời.
Ngày thứ hai, công việc được phân chia đều theo khả năng của từng người.Người thì giết thịt trâu, bò hay heo, gà… để chế biến thức ăn, người thì lấy nước, lấy củi… Tất cả tạo nên một không khí vui vẻ, kết đoàn của cả cộng đồng. Hôm đó là ngày vui nhất, ngày để mọi người cùng ăn uống, vui chơi ca hát, nhảy múa. Những dàn chiêng hay nhất, những bài ca, điệu múa đẹp nhất được các chàng trai, cô gái thể hiện hết mình. Lúc đầu là mát muôi chơ piar, tiếp đến là những bài dân ca, ca ngợi tình yêu quê hương đất nước được thể hiện một cách hồn nhiên, say sưa và đằm thắm; đặc biệt, những người có khả năng nổi trội cảm hứng ứng tác những làn điệu mới. Cứ thế, họ ăn uống chung vui và chúc tụng nhau những điều tốt đẹp nhất, thâu đêm đến tận sáng hôm sau.
Ngày thứ ba, khi mặt trời đã lên cao, ông mối chuẩn bị một ghè rượu và một con gà để làm lễ cúng.
Có thể nói, lễ cưới của người Brâu là một trong các nghi lễ quan trọng nhất trong vòng đời người. Nó được tổ chức trang trọng và nhiều sản vật quý, nhiều thời gian với sự có mặt đông đủ của cả cộng đồng trong niềm vui bất tận, ngập tràn trong không khí lễ hội.
Nhìn ở góc độ văn hóa, đây là một cuộc trình diễn với nhiều giá trị văn hóa nghệ thuật dân gian đặc sắc được thể hiện. Ở góc độ xã hội cộng đồng, đây là một không gian đằm thắm, kết đoàn của mối quan hệ tình cảm giữa con người với con người, nó cố kết mối quan hệ cộng đồng chặt chẽ trong tình thương yêu đùm bọc, giúp đỡ, tương trợ về tinh thần và vật chất trong một hoàn cảnh sống còn gặp không ít khó khăn. Đặc biệt, đây là không gian thuận lợi nhất cho những đôi trai gái có điều kiện gặp gỡ, giao lưu và tỏ tình. Đám cưới của đôi tân hôn là mầm mống của hạnh phúc cho những lứa đôi tiếp theo.
Sau lễ cưới, ông mối vẫn luôn có trách nhiệm với đôi vợ chồng trẻ. Ông mối đi cùng cuộc đời của đôi trai gái – từ lúc ướm hỏi, tới lễ thức trao vòng cầu hôn, rồi lễ cưới và trách nhiệm với đôi vợ chồng trong cuộc sống gia đình. Dĩ nhiên, đôi vợ chồng luôn phải chịu ơn và thường xuyên quan tâm, thăm hỏi ông mối của mình. Nếu đôi lứa trong cuộc sống vợ chồng mọi điều tốt đẹp (ăn nên làm ra, khoẻ mạnh, thuận hòa, sinh con đẻ cái…) thì đây là hạnh phúc không chỉ của hai vợ chồng mà còn của cả gia đình và cộng đồng. Niềm hạnh phúc này khẳng định vai trò của ông mối – người tác thành hoàn hảo. Ngược lại, nếu có sự cố bất hòa thì chính lúc này ông mối lại đóng vai trò người hòa giải, hàn gắn những rạn nứt, bổ sung những khiếm khuyết trong cuộc sống gia đình.
Lễ lại mặt (tơ vinh chem)
Sau lễ cưới khoảng 1-2 ngày, người con trai đưa vợ và cha mẹ vợ lại thăm gia đình nhà mình với mục đích để nhà gái đáp lễ nhà trai đã tặng cho họ một chàng rể quý và một lễ cưới chu đáo, vui vẻ.
Cha mẹ cô gái phải mang sang nhà trai lễ vật, gồm một ghè rượu, gà, heo, thuốc hút để cảm ơn nhà trai. Nghi thức này cũng rất đơn giản và vui vẻ. Họ làm thịt heo, gà và cùng ăn uống. Đây cũng là dịp để hai gia đình hiểu thêm về nhau, kết thân tình thông gia và cũng là nhận họ hàng, bà con, bằng hữu… cô dâu trình diện, tiếp xúc, tìm hiểu thêm về gia đình nhà chồng và cũng là dịp bày tỏ sự khéo léo, đảm đang của mình trong quan hệ ứng xử và công việc quán xuyến gia đình.
Họ có thể quay về hay ngủ lại đêm ở đó nếu đường xa, nhưng khi quay về, chàng rể không quên mang theo những đồ dùng cá nhân để tiếp tục sinh hoạt, lao động bên nhà vợ trong những tháng ngày tiếp theo. Từ nay, hai bên gia đình đã có mối quan hệ thân thiết với nhau. Họ thường xuyên qua lại thăm hỏi tạo nên một mối quan hệ chặt chẽ không chỉ gia đình mà cả dòng họ, có khi cả hai cộng đồng. Như vậy, hôn nhân của đôi trai gái đã tạo dựng được liên minh trong quan hệ hôn nhân, làm tiền đề cho các quan hệ tiếp theo.
Trang phục trong ngày cưới của cô dâu, chú rể
Nghề dệt của dân tộc Brâu kém phát triển, do vậy, toàn bộ khố (ch’nái), váy (chơ đang) họ đều chấp nhận dùng của các dân tộc khác qua hình thức trao đổi bằng sản vật.
Trong ngày cưới, cô dâu thường mặc váy, áo đổi của các tộc người lân cận, có khi cả váy áo của người Kinh. Chú rể trang phục có phần đơn giản hơn, trước đây thường mặc khố và áo của người Xơ đăng, Giẻ-Triêng… Ngày nay quần, áo của người Kinh may sẵn tiện lợi, giá cả phù hợp nên người đàn ông Brâu ưa dùng cả trong ngày thường cũng như trong ngày cưới.
Như vậy, trang phục trong ngày cưới của cô dâu và chú rể Brâu tương đối đơn giản, không có loại trang phục riêng cho ngày cưới cũng như trang phục cho lễ hội như các tộc người khác. Tất cả trang phục đều là loại thường dùng, tuy nhiên ngày cưới, cô dâu, chú rể mặc bộ trang phục mới, đẹp hơn ngày thường.
Nghi thức lễ cưới với các dân tộc khác
Trường hợp trai Brâu lấy gái tộc người khác, mọi nghi thức được tiến hành theo quy định của nhà gái. Trường hợp cô gái thuộc tộc Xơ đăng (mẫu hệ), thì cô gái chủ động mang lễ vật đến nhà chàng trai Brâu để cưới hỏi, rước chàng rể và mời cả gia đình chú rể về để tổ chức hôn lễ tại nhà gái. Chàng rể ở lại luôn nhà gái sau đám cưới và thực hiện việc cư trú luân phiên theo phong tục của người Brâu.
Trường hợp gái Brâu lấy chồng tộc người khác, nghi thức lại được tổ chức theo phong tục Brâu, nghĩa là gia đình chú rể phải mang lễ vật sang nhà gái và ở luôn đó để tổ chức lễ cưới tại nhà gái.
11. Một số nhận xét
Hôn nhân của người Brâu về cơ bản là hôn nhân một vợ, một chồng trên cơ sở tình yêu tự nguyện và do người con trai chủ động. Trai gái đến tuổi trưởng thành tự do tìm bạn đời, cũng có khi do gia đình, thông qua bạn bè hoặc mai mối.
Tuổi kết hôn của người Brâu tương đối sớm, nữ 15-18, nam 18-20, cá biệt có trường hợp nữ kết hôn ở tuổi 13-14 và sinh con ở tuổi 15. Tuy nhiên, những năm gần đây do làm tốt công tác tuyên truyền vận động và quản lý hành chính ở cơ sở nên tảo hôn cũng đã ít xảy ra.
Cư trú sau hôn nhân của người Brâu trước đây theo hình thức luân phiên, những năm gần đây hình thức cư trú này không còn bắt buộc nữa, các cặp vợ chồng tùy chọn nơi ở mới, phổ biến nhất là làm nhà riêng ngay cạnh cha mẹ.
Tập tục hôn nhân cận huyết, tục nối dây, hôn nhân anh em vợ, chị em chồng, đa phu, đa thê có tồn tại, nhưng chỉ mang tính cá biệt, không được cộng đồng khuyến khích và những trường hợp đó cách đây từ 3 đến 4 thế hệ, hiện nay không còn tồn tại.
Xu hướng hôn nhân của người Brâu hiện nay mang tính hỗn hợp, mở rộng với các tộc người khác trong khu vực và bên kia biên giới Lào, Cămpuchia.
Các lễ thức trong hôn nhân truyền thống của người Brâu vẫn được duy trì nhưng có phần được đơn giản bớt, song vẫn bao hàm đầy đủ các nghi thức truyền thống trước, trong và sau lễ cưới. Hiện nay một số gia đình tổ chức đám cưới cho con cái vừa theo truyền thống của người Brâu, vừa có sự cách tân, nghĩa là lễ cưới được tổ chức làm hai lần. Lần 1 theo nghi thức truyền thống, dành cho hai gia đình và người bà con thân thích. Lần 2 tổ chức theo hình thức của người Kinh (rạp, âm thanh, ca hát, mâm tiệc, bia rượu, phong bì tiền mừng…) dành cho bạn bè cô dâu, chú rể.
Vấn đề bỏ vợ, bỏ chồng trước đây đối với người Brâu rất ít khi xảy ra, nếu có thì cũng là những trường hợp đặc biệt. Ngày nay việc ly hôn đối với các cặp vợ chồng trẻ xảy ra nhiều hơn, nhất là hôn nhân với tộc người khác, đặc biệt là với người Kinh.
Chấp hành Luật Hôn nhân và gia đình đối với người Brâu hiện nay chưa được tốt. Việc lấy vợ (chồng) chủ yếu vẫn theo luật tục. Trai gái đăng ký kết hôn tại chính quyền chưa được gia đình và cô dâu, chú rể coi trọng (Năm 2010 40% các cặp vợ chồng đăng ký kết hôn trước khi làm đám cưới, 20 % sau đám cưới, 40% không đăng ký kết hôn).
Công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình đối với các tộc người thiểu số, đặc biệt là tộc người có số dân rất ít như Brâu cần nhìn nhận quy định mỗi cặp vợ chồng chỉ có một đến hai con một cách linh hoạt, không cứng nhắc về số con của các cặp vợ chồng mà cần quan tâm đến đứa trẻ sinh ra được khỏe mạnh và nuôi dưỡng trưởng thành; điều này rất có ý nghĩa không chỉ ở góc độ phát triển quy mô dân số mà còn quan trọng hơn là chất lượng dân số.
_______________
1. Những người con lai giữa bố, mẹ là tộc người Brâu với tộc người khác được coi là người Brâu.
2. Thi Trân, vnexpess.net
3. Cục Thống kê Kon Tum, Niên giám thống kê 2003, Kon Tum, tr.276.
4, 5. Nguồn điền dã của tác giả tháng 4-2011.
6. Phan Hữu Dật, Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.262.
7. Tác giả lấy thông tin từ Nàng Giang (chưa qua kiểm chứng)
8. Người Brâu có tín ngưỡng đa thần, coi tất cả các lực lượng siêu nhiên là jàng
9. Thước, cữ đặt trên miệng ghè để đo lượng rượu khi mỗi người uống.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 343, tháng 1-2013
Tác giả : Bùi Ngọc Quang
Bài viết cùng chủ đề:
Bảo tồn văn hóa si la trong bối cảnh hiện nay
Giữ gìn văn hóa truyền thống tộc người tày ở thái nguyên
Vai trò của người dân trong bảo tồn giá trị quan họ làng vân khám