KHỐI TETRAPOD – ẨN DỤ ĐA NGHĨA TRONG NHỮNG ĐỨA CON CỦA NỬA ĐÊM CỦA SALMAN RUSHDIE

Salman Rushdie là nhà văn Anh gốc Ấn Độ. Ông là tiểu thuyết gia xuất chúng của văn học đương đại thế giới. Giải thưởng văn học Man Booker năm 1981 cho tác phẩm Những đứa con của nửa đêm của ông (1) đã mở ra một thời kỳ rực rỡ của dòng văn học Ấn Độ viết bằng tiếng Anh. Thông qua những câu chuyện ngụ ngôn mang màu sắc tôn giáo và triết học, Salman Rushdiemong muốn khơi gợi niềm tự hào thẳm sâu trong tâm hồn dân tộc. Bằng lối kể chuyện hài hước đậm chất truyền khẩu, giọng văn thâm thúy, nhân vật hư cấu siêu thực… Salman Rushdie đã làm sống lại những huyền thoại cổ xưa, những âm hưởng bi hùng của nền văn minh Veda một thời vàng son.

Khối tetrapod trong tiểu thuyết Những đứa con của nửa đêm là một ẩn dụ với nhiều lớp nghĩa hàm ẩn. Trong thực tế, chúng là những khối bê tông được thiết kế đặc biệt, đặt ở bờ biển để ngăn chặn sóng biển ăn lở vào bờ. Khối tetrapod được ứng dụng rộng rãi cho các công trình lấn giữ biển. Hình tượng nghệ thuật tetrapod gắn với cuộc đời và tính cách của bác sĩ Narlikar – nhân vật chính của tiểu thuyết. Ẩn dụ khối tetrapod chứa đựng khát vọng lấn biển làm giàu một cách điên cuồng của Narlikar, người đàn ông cấp tiến, tôn thờ chủ nghĩa thực dụng đồng thời có nhãn quan của một doanh nhân, biết trục lợi đúng thời điểm. Trong mọi tình huống, hoàn cảnh, Narlikar luôn biết cách tạo ra sự khan hiếm ảo của thị trường địa ốc để thu lợi bất chính. Đối với ông ta, kiếm thật nhiều tiền, trở thành người giàu có và sử dụng quyền lực của đồng tiền đã trở thành nỗi ám ảnh bệnh hoạn. Cùng với tham vọng về sự sang giàu, ở Narlikar, còn là ẩn ức về sinh lực, về sinh sản và năng lượng sống. Để rồi từ đó, khối bê tông tetrapod từ hình dáng được khắc họa đến ý nghĩa biểu trưng đã trở thành biến thể bê tông hóa của linga, được liên tưởng với linga – yoni và tín ngưỡng phồn thực của văn minh Veda (Ấn Độ).

Ở nền văn minh sông Ấn, cách chúng ta hơn 40 thế kỷ, linga là biểu tượng sức mạnh sinh sản dồi dào của thần Shiva; của năng lượng sống nguyên thủy và tinh khí hạo nhiên. Theo Cirlot (2), linga không chỉ là hình ảnh cách điệu của dương vật mà còn là biểu thị của sinh thực khí, của sự hòa quyện đất trời và nguồn gốc nòi giống: “Người Ấn không thích gì bằng con, dẫu cảnh Niết bàn họ cũng không ước ao bằng. Vì vậy một phần mà họ trọng cái khả năng tính dục, thờ những dương vật tượng trưng cho sự sinh sản, con cái đầy nhà” (3). Như vậy, linga là khát vọng vươn đến sự sinh sôi tràn đầy của vạn vật trong vũ trụ.

Ấn Độ năm 1947 là bối cảnh của tiểu thuyết Những đứa con của nửa đêm: đất nước giành được độc lập; sự ly khai của phần lãnh thổ phía tây bắc; nhà nước Pakistan tự trị ra đời… Đây là thời điểm của một Ấn Độ vinh quang và đau khổ, của ánh sáng và bóng tối. Riêng với bác sĩ Narlikar, những sự kiện trọng đại này đã trở thành cơ hội kinh doanh hiếm có. Trong bức thư gửi Ahmed Sinai (bố của Saleem), ông ta viết: “Bọn Anh đang lũ lượt bỏ đi, Sinai bhai… Nhà đất rẻ như bèo! Bán hết đi, lên đây, mua và sống xa hoa đến hết đời!” (4). Và mối quan hệ giữa kinh tế và tôn giáo bỗng thành tình tiết gây bất ngờ: “Các tiết kinh Quran không có chỗ trong một cái đầu đầy tiền đến thế” (5).

Như vậy, biểu tượng sinh thực khí linga và ẩn dụ khối tetrapod có nhiều tương đồng trong sự liên tưởng. Đó là ước mong sinh sôi, phát đạt và thịnh vượng. Nếu linga – yoni là tín ngưỡng phồn thực, là biểu tượng gốc của thần thoại tiền Veda thì tính chất biểu trưng của tetrapod “như một hình thức biểu tượng chỉ đường đến tương lai”. Nét khác biệt giữa linga và tetrapod, cũng chính là sự kế thừa sáng tạo của nhà văn. Tetrapod là sự thịnh vượng vững bền được bê tông hóa; là tham vọng khắc chế tự nhiên của con người. Giữa linga và tetrapod đã tạo ra sự xung đột một mất một còn. Chủ ý của nhà văn thể hiện khi diễn tả sự đụng độ: “Các lực lượng xa xưa đen tối cường dương của Ấn Độ cổ đại, phồn thực đã được giải phóng lên cái vẻ đẹp của bê tông vô sinh TK XX” (6).

Trong Những đứa con của nửa đêm, cái chết bi kịch của bác sĩ Narlikar được đặt trong một bối cảnh như vậy. Đó là khi Narlikar tản bộ dưới bãi biển, ông đã rất tức giận khi thấy khối bê tông chắn sóng tetrapod bị những người phụ nữ ăn xin “cầu nguyện và tẩy rửa” (nghi lễ Puja). Ông ta không thể chấp nhận: “điều kỳ diệu của công nghệ đã bị biến thành Shiva-linga” (7). Trong cơn thịnh nộ, vị bác sĩ thù ghét sự sinh sản đã đá văng những ngọn đèn và xô xát với đoàn người trong đám tuần hành. Ông ôm chặt khối bê tông khổng lồ, còn đám đông thì ra sức xô đẩy nó. Thân thể vị bác sĩ đã bị nghiền nát bởi sức nặng của “vật ám ảnh yêu dấu của ông”.

Cái chết của Narlikar là xung đột linga – tetrapod; là xung đột quá khứ – tương lai; và xung đột giữa tăng trưởng nóng với sự phát triển bền vững. Hơn cả, đây còn là những mâu thuẫn khó dung hòa của một nền văn hóa đa tôn giáo, đa ngôn ngữ.

Nỗi ám ảnh mang tên linga và tetrapod, mà ở đó Shiva – linga là sức mạnh của sinh sôi tự nhiên. Còn khối công nghệ tetrapod chính là tham vọng chinh phục thiên nhiên vì sự tăng trưởng nóng của nền kinh tế hiện đại. Qua biểu tượng linga và ẩn dụ tetrapod, sự liên kết của các hình ảnh liên tưởng đã gửi đến độc giả thông điệp của Salman Rushdie và tiểu thuyết Những đứa con của nửa đêm của ông được coi là một tác phẩm “ngụ ngôn lịch sử”.

Trong Những đứa con của nửa đêm, hình ảnh biểu trưng “ngón tay đang chỉ về phía đại dương” xuất hiện với tần số cao cùng với ẩn dụ khối tetrapod xuất hiện dày đặc gây ám ảnh. Do đó, việc tìm về tín ngưỡng, tôn giáo cổ Ấn Độ để lý giải là hướng tiếp cận khoa học để minh chứng cho khát vọng chinh phục đại dương đã có mầm mống từ truyền thuyết huyền thoại nguyên sơ. Đơn cử như, huyền tích Ram Setu trong hội họa Hindu giáo hay các bức tranh vẽ Chúa tể Rama chỉ tay về phía đại dương trong cuộc chinh phạt vua quỷ Rakshasa cứu hoàng hậu Sita… Ngày nay, dấu vết của huyền tích vĩ đại Ram Setu vẫn còn hiện hữu ở vị trí địa lý, địa hình của đất nước Ấn Độ.

Để tìm hiểu mối liên quan giữa biểu tượng linga và khối tetrapod trong tiểu thuyết Những đứa con của nửa đêm, hướng tiếp cận tâm lý học cũng mở ra nhiều cách lý giải. Cứ liệu được chúng tôi dẫn ra sau đây, với hy vọng sẽ đưa ra một cách luận giải về hình tượng khối tetrapod từ phương diện tâm lý học.

Theo Latif (8), vào năm 1860, Alfred Dundas Taylor khởi xướng một dự án mang tính bước ngoặt, có tên: Dự án kênh đào hàng hải Sethusamudram. Đây là công trình chiến lược, thiết lập tuyến đường vận chuyển xuyên qua các eo biển cạn giữa Ấn Độ và Sri Lanka; hình thành đầu mối hàng hải sầm uất ở Ấn Độ. Kênh đào dự kiến sẽ nối liền eo biển Palk với vịnh Mannar. Để thực hiện dự án, bãi cát ngầm được cho là dấu vết của chiếc cầu huyền thoại Ram Sethu bị cắt ngang.

Từ khi được khởi xướng (1860) đến ngày Ấn Độ giành độc lập (1947), đã 87 năm trôi qua, với nhiều thế hệ lãnh đạo và dự án Sethusamudram vẫn luôn được quan tâm đặc biệt. Tuy nhiên, dự án đã vấp phải sự phản kháng gay gắt của người Hindu giáo và ngư dân lâu đời ở vùng biển Sethusamudram. Sự phản đối dựa trên thông điệp của các nhà bảo vệ môi trường với cảnh báo hoạt động nạo vét có nguy cơ gây xáo trộn hệ sinh thái vốn rất mong manh của eo biển Palk. Thậm chí đe dọa đến cả khu dự trữ sinh quyển của vịnh Mannar Marine.

Chiếc cầu Rama (huyền tích Ram Sethu) đóng vai trò như một rào chắn tự nhiên trước nguy cơ giận dữ của Ấn Độ Dương. Nếu dự án diễn ra, vùng Kerala có nguy cơ chìm trong biển cả.

Tuy nhiên, lý do bảo vệ môi trường không phải là nguyên nhân chính của sự tranh cãi không có hồi kết kéo dài nhiều thập niên. Nguyên nhân quan ngại nhất chính là nó đã chạm đến tín ngưỡng Hindu giáo. Theo đó, mâu thuẫn giữa những người Hindu giáo với chủ trương của chính phủ ngày càng nặng nề, không thể hòa giải.

Phải chăng, sáng tạo hình ảnh ẩn dụ khối tetrapod được coi là sự hoài nghi mang tính dự báo và định hướng phát triển kinh tế ở Ấn Độ của nhà văn Rushdie? Một nền kinh tế phát triển chông chênh thiếu cơ sở nền tảng sẽ khó có thể đạt đến sự thịnh vượng bền vững?

Tiểu thuyết Những đứa con của nửa đêm là sự khám phá các hình ảnh biểu trưng, các biểu tượng văn hóa phồn thực; khai thác các tầng nghĩa của biểu tượng gốc ứng dụng trong đời sống tinh thần con người Ấn Độ hiện đại: Một linga của niềm tin tín ngưỡng với khối bê tông tetrapod vô hồn; những ngôi đền thờ nữ thần Kali hoan lạc; sự tha hóa của con người trong một thế giới nặng về nhu cầu vật chất, cùng các vấn nạn ô nhiễm môi trường, cạn kiệt nguồn nước, chia rẽ dân tộc…

Có thể nói, Những đứa con của nửa đêm của Salman Rushdie là chiếc cầu nối văn hóa Ấn Độ, từ truyền thống đến hiện đại; là sự tiếp nối tư tưởng nhân văn; là sự khám phá mối quan hệ linh thiêng giữa thiên nhiên và con người; làm sống lại một nền văn minh Veda bản sắc, niềm tự hào của văn minh nhân loại; thức tỉnh những vị thần khổng lồ Ấn Độ, chính là thông điệp mà Salman Rushdie mong muốn gửi đến chúng ta.

_______________

1, 4, 5, 6, 7. Rushdie S., (Nham Hoa dịch), Những đứa con của nửa đêm, Nxb Hội nhà văn, 2014, tr.112, 112, 235, 235.

2. CirlotJ.E., Dictionary of Symbol, Nxb Routledge, London, 1971, tr.189.

3. Durant W., Lịch sử văn minh Ấn Độ, Nxb Văn hóa Thông tin, 2004, tr.236.

8. Latif A., Three Sides in Search of a Triangle: Singapore-America-India Relations, Nxb Insitute of Southest Asian Studies, Singapore, 2009, tr.52-53.

 

Nguồn : Tạp chí VHNT số 408, tháng 6 – 2018

Tác giả : HUỲNH THỊ DIỄM

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *