Lễ hội làng ngọc tiên


                                                     Dù ai đi khắp ba miền 

Nhớ ngày lễ hội Ngọc Tiên thì về

 

Dù cho bận rộn tứ bề

 

Rằm giêng mở hôi thì về Ngọc Tiên

 

 

Câu nói đó đã ăn sâu vào trong tâm thức của biết bao thế hệ người dân làng Ngọc Tiên (thuộc xã Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định) và đến nay nó vẫn còn nguyên giá trị. Tên gọi của làng xưa kia là Ngọc Cục. Theo truyền thuyết dân gian kể lại có một người sống ở tỉnh Đông (tức tỉnh Hải Dương bây giờ) (1) đưa đàn vịt đến đây chăn thả (bấy giờ vùng này còn là bãi bồi, cồn cát hoang vu). Thấy nơi đây đất bồi phù sa màu mỡ đầy triển vọng nên đã dựng lều ở đây sinh sống bằng nghề chăn vịt và chài lưới. Sau này, người ấy đã khai hoang lập ấp và không về bản quán nữa. Văn bia ở chùa Ngọc Cục (nay là chùa Ngọc Tiên) có ghi lại: một số người của các dòng họ Phan, Trịnh, Đặng, Nguyễn… như cụ Phan Văn Thức, Trịnh Đình Hai, Đặng Trực… quê Ngọc Cục phủ Bình Giang thuộc tỉnh Đông đến vùng này khai đất lập làng và gọi nơi đây là Nam thiên Ngọc ấp. Ban đầu các cụ khai phá lập làng từ thôn Cựu, Nội, Đoài đến các xóm Đông, Ninh sang xóm Thọ rồi đến xóm Thố (còn gọi là xóm Phú Cốc tức Phú Yên ngày nay), tiếp theo là xóm Tây Khu. Theo tài liệu thư tịch thì làng Ngọc Cục được hình thành từ khoảng TK XIII – XIV, đến nay đổi thành Ngọc Tiên. Làng Ngọc Tiên hiện nay có 6 xóm, theo hai xu thế tâm linh: Thiên chúa giáo và tín ngưỡng truyền thống (gồm Phật giáo – còn gọi là bên lương/lương dân) (2). Cơ cấu bên lương dân chia làm 8 giáp để phù hợp cho sự quản lý của chính quyền trong các hoạt động của làng. Theo dòng thời gian, những nhóm dân cư ở nhiều miền quê khác cũng về đây định cư lập nghiệp.

Dưới thời Trần, các tôn thất như Trần Thủ Độ, Trần Liễu, Trần Quang Khải, đều được ban thái ấp trên đất Nam Định. Ngoài ra, triều đình còn cho phép các vương hầu, công chúa, phò mã… chiêu mộ dân nghèo đến khai hoang lấn biển. Do đó, nhiều thái ấp đã được hình thành, từ Mỹ Lộc đến huyện Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trường. Vào những năm 30 của thế kỷ trước, tại Nam Định có nhiều làng xã được thành lập từ khá sớm. Tất cả các làng ở phía bắc sông Ninh Cơ đều là những làng cổ được thành lập trong khoảng thời gian từ TK XIV đến XV. Có thể nói rằng, từ thời Lý Trần cho đến thời Lê, vùng đất Nam Định đã được khai phá rất mạnh, đã có sự tụ cư khá đông của cư dân người Việt ở vùng Sơn Nam hạ giáp biển trừ những vùng đất mới được bồi tụ sau này (3).

Làng Ngọc Tiên có quần thể di tích khá hoàn hảo trong một khuôn viên rộng rãi, khang trang. Chùa nằm chính giữa, đền mẫu ở phía đông, đền thờ thánh ở phía tây tạo nên sự liên hoàn giữa các công trình kiến trúc tâm linh, vừa sầm uất, vừa u tịch, thiêng liêng. Khi về chiều, tiếng chuông thu không lại vang lên hòa vào với nhịp sống của vùng quê trù phú tạo nên khung cảnh thanh bình của làng quê Việt truyền thống. Xét về mặt địa lý thì làng Ngọc Tiên nói chung và không gian tâm linh nói riêng nằm ở vị trí thuận lợi, có đường giao thông liên huyện, lại gần sông Ninh Cơ, tạo nên một mạng lưới huyết mạch liên kết với các vùng lân cận. Vì vậy, chùa – đền của làng Ngọc Tiên không chỉ thỏa mãn nhu cầu tâm linh của người dân sở tại mà còn cho cả người dân trong vùng.

Tam quan chùa được kết cấu hai tầng tám mái có ngựa chầu, hai cột trụ bằng đồng xây dựng rất công phu. Vượt qua tam quan, hai bên tả hữu là những dãy nhà 6 gian, phía đông có ngôi miếu thờ Bà Làng. Tương truyền vào thời Trần, nhà vua về thăm vườn Kim Quất (phủ Thiên Trường), Nam thiên Ngọc ấp (tức làng Ngọc Cục) được chỉ dụ cử nam thanh nữ tú đi nghênh giá. Trong số nữ tú đó, có cô gái xinh đẹp xuất chúng được vua cho về kinh thành làm phi. Rồi, nàng được vua ban cho mỹ tự đẹp như tiên như ngọc và từ đấy, nhân chuyện này mà làng mang tên Ngọc Tiên (đổi từ Ngọc Cục thành Ngọc Tiên). Phía tây chùa là miếu Bách Linh, có chiếc giếng khơi. Thành giếng xếp 96 cối đá thủng, ken nhau lọc ra dòng nước trong lành để phục vụ sinh hoạt trong những ngày lễ tiết cúng Phật. Theo truyền thuyết, lúc đầu dân cư còn thưa thớt chưa đủ điều kiện thành lập làng, nên chỉ gọi là Nam thiên Ngọc ấp thuộc phủ Hải Thanh. Đến thời Trần, hương Tức Mặc đổi thành phủ Thiên Trường và lúc đó mới xây dựng chùa chiền để người dân có nơi mộ Phật, trong đó có chùa Ngọc Tiên. Chùa do Giác Hải thiền sư xây dựng gần bờ sông Đồng Giang (Ninh Cơ), cạnh ao Quan Điền, tên chữ là Thanh Quang, sau do thiên tai tàn phá, dân làng đã di chuyển vào khu vực cạnh đền như ngày nay (4). Hàng năm, vào rằm tháng giêng, chùa đều mở hội (lễ hội Phật giáo). Bên cạnh lễ hội có tính chất tôn giáo, thì vào ngày này, dân làng Ngọc Tiên cũng mở hội dân gian để tưởng nhớ đến công ơn của thành hoàng làng. Tương truyền, làng Ngọc Tiên thờ tướng quân triều Lê là Hoàng Văn Quảng, người đã có công khai mở đất đai, ổn định cuộc sống và bảo vệ dân làng, đánh được giặc giã. Hội làng được mở từ 12 đến 15 tháng giêng hàng năm, ngày 15 là chính tiệc. Trước khi vào hội, các giáp cử người đi tìm mua những cây luồng, bương có chiều cao trên 25m để về dựng nêu. Khi dựng cây nêu, thanh niên trai tráng trong giáp chuẩn bị lạt tre đã vót tròn to bằng ngón chân cái nối đối đầu nhau như đấu song thuyền. Cây nêu dựng lên có ý nghĩa ngăn ngừa quỷ dữ từ biển Đông xâm nhập vào đất liền làm hại nhân gian. Mặt khác, cây nêu được coi là trục nối giữa trời và đất, cầu mong cho cuộc sống yên bình hơn.

Trong những ngày diễn ra lễ hội, ngoài tế, lễ, rước kiệu… còn có các hoạt động văn hóa truyền thống như: lên đu tiên, leo cầu ngô trên mặt nước, bắt vịt, bốc bồi, cờ tướng, kéo co… được duy trì từ nhiều đời nay. Nhưng độc đáo, sinh động, náo nhiệt nhất vẫn là trò thổi cơm thi làm cỗ chay dâng thánh thần tổ tiên. Trò này diễn lại cảnh sinh hoạt của nghĩa binh dưới thời đức thánh tổ dấy binh trấn giữ ấp thôn, thiếu thốn mọi bề, vừa hành quân vừa lo hậu cần và phải tích cốc phòng cơ (tích trữ gạo, phòng vào những lúc khó khăn) cho những khi thiếu đói. Chính vì vậy, tục thổi cơm thi của làng Ngọc Tiên diễn ra theo một quy trình khép kín từ việc lấy nước (địch thủy), tạo lửa (địch hỏa), đến thổi cơm làm bánh. Đây cũng chính là nét độc đáo, hấp dẫn làm nên đặc trưng của hội làng Ngọc Tiên so với các vùng quê khác.

Trước ngày vào đám, tất cả các giáp đều cử người lên đền mang dụng cụ thi đấu như: nồi đồng điếu, quang gánh, cần trúc, bát đĩa… ra lau rửa, sửa sang cho thật sạch sẽ. Bãi đất trước cửa đền được san phẳng, đường dong (5) ngõ xóm quét dọn phong quang chuẩn bị cho ngày chính hội. Tham dự hội làng có 6 giáp, mỗi giáp chọn đủ 14 trai đinh, tuổi từ 18 trở lên, có phẩm chất đạo đức tốt, khỏe mạnh, nhanh nhẹn, gia đình toàn vẹn không vướng bụi (tang ma). Xưa kia gạo, đỗ dùng để đồ xôi làm bánh phải được trồng riêng trên huệ điền (một loại ruộng được dân làng trồng cấy và sản phẩm chỉ dùng cho việc tế tự). Quá trình trồng cấy thu hoạch, bảo quản gạo, đỗ đều do tay các lão ông đảm nhận. Việc lấy nước, tạo lửa để nấu cơm cũng do nam giới làm. Phụ nữ không được phép tham gia vào các nghi thức chính của lễ hội.

Để bắt đầu phần thi thổi cơm và làm cỗ chay, các giáp phải trải qua hai phần thi địch thủy và địch hỏa. Khi có nước, có lửa thì thổi cơm thi mới được bắt đầu. Thi địch thủy, mỗi giáp cử ra 2 người, tay cầm một chiếc nậm nhỏ, chạy ra bến Cựa gà, lội ra giữa dòng sông Ninh lấy nước mang về đổ vào nồi đáy của chõ đồ. Trong quá trình lấy nước, ngón tay cái phải bịt chặt miệng nậm để nước khỏi sánh ra ngoài. Ai mang nước về nhanh nhất, không làm vương vãi dọc đường là người thắng cuộc. Thi địch hỏa được coi là gay cấn nhất, lôi cuốn sự chú ý và tạo tâm lý hồi hộp không chỉ đối với người dự thi mà còn cả với khách thập phương. Bởi có đạt kết quả ở phần thi này mới được tham dự vòng thi kế tiếp. Hơn nữa theo quan niệm của người phương Đông nói chung và người Việt nói riêng, thì việc tạo lửa trong ngày đầu xuân là điềm lành, mang nhiều may mắn, thuận lợi. Do đó thao tác nhanh, dứt khoát, tạo lửa khéo và đốt cờ chính xác là trách nhiệm của mỗi người dự thi đối với nội tộc và xóm làng. Mỗi giáp vào dự thi mang theo một bộ dụng cụ kéo lửa gồm: một thanh cái đặt cố định dưới đất làm bằng tre bánh tẻ, đường kính khoảng 4cm, đã tách rời làm đôi, tạo ke hở cho mùn rơi xuống trong quá trình kéo lửa; một thanh tre khác dài, mỏng gọi là thanh con (hay thanh dao) được lấy từ gốc tre già, dùng để cọ sát vào thanh cái. Bí quyết trong phần thi này là dụng cụ kéo lửa phải được làm bằng cây tre chết bụi, rồi để trên gác bếp 3 tháng mới sử dụng. Khi vào cuộc, 12 người của 6 giáp xếp thành hàng ngang, tất cả nín thở, dùng lực cọ sát 2 thanh tre vào nhau tạo ra một lớp mùn mịn. Mùn tre vón cục gặp ma sát lớn tạo thành lửa. Nhưng lúc này lửa chỉ là một đốm than hồng, người kéo phải khéo hà hơi để lửa bén vào bùi nhùi rơm bùng lên thành ngọn lớn. Lúc này cả sân đền mới rộ lên tiếng reo hò cổ vũ của người dân tham gia lễ hội. Khó khăn thế nhưng quy định cho phần thi kéo lửa chỉ được thao tác trong vòng từ 15 – 20 giây. Vậy mà bằng sự nỗ lực của bản thân, sự cổ vũ nhiệt tình của bà con chòm xóm, đã có năm các chàng trai của làng Ngọc Tiên chỉ mất 12 giây để tạo ra lửa. Vận động viên kéo lửa giơ cao ngọn lửa do mình tạo ra, đốt cờ lệnh báo hiệu phần thi của mình đã hoàn tất rồi cùng dân làng rước lửa về sân đền nấu cỗ, châm bếp bắt đầu phần thi làm bánh, thổi cơm trong tiếng hò reo cổ vũ náo nhiệt. Người tham dự phần thi thổi cơm phải quán xuyến các khâu từ đeo cần trúc lên vai, cố định niêu cơm đến giữ lửa cho cơm chín, vừa đi vừa nấu, theo sau là cả đoàn rước khua chiêng, gõ trống tưng bừng. Để hoàn thành tốt phần thi này, họ đã chuẩn bị rất công phu, tỉ mỉ từ việc chọn loại gạo ngon rồi lựa từng hạt sao cho đều nhau, đến chiếc cần trúc treo niêu cơm được quấn giấy ngũ sắc trông rất đẹp. Người thi phải biết ước lượng sao cho đủ nước, đủ lửa, cơm chín nục, dẻo thơm trong thời gian đi trọn 3 vòng rước quanh sân đền, bất luận tiết trời như thế nào. Cụ Nguyễn Minh Oanh thuộc vào lớp người xưa nay hiếm, đã tham gia hội làng từ khi còn trai trẻ (nay trong Ban quản lý di tích) cho biết: “Chỉ tính riêng việc chuẩn bị cho chiếc cần trúc treo niêu cơm cũng rất mất công. Khi cây măng lên khỏi mặt đất người ta uốn cong theo hình chữ S, nuôi dưỡng thuần hóa đến khi đủ độ dẻo dai, bền chắc thì đẵn xuống. Rồi cho cây trúc tắm qua khói lửa, bồ hóng thêm một thời gian nữa mới đem vào sử dụng, công đoạn này ước tính mất gần 3 năm. Khi nấu cơm, vòng cong lớn của cần trúc ép vào dọc sống lưng người chơi và cố định bằng một giải lụa điều. Phần cong nhỏ vắt qua vai để treo quang sắt, cố định chiếc nồi đồng điếu bên trong. Hai tay cầm 2 bó đuốc hơ đáy nồi cơm cho chín. Người nấu cơm phải ước lượng nên gia lửa, hãm lửa lúc nào để cho cơm sôi bùng, hạt gạo ngậm no nước, chín đẫy hơi thì cơm mới nục. Đến khi cơm sôi, hai bó đuốc được dồn cả về một bên tay, tay còn lại một chiếc đũa cả vừa mở vung nồi vừa quấy. Đây cũng là lúc người ta nhìn hạt gạo để điều tiết lửa sao cho cơm vừa chín tới đạt yêu cầu không khô, không hấy (đủ hơi, nhiệt), đơm đủ một bát, góp vào mâm cơm cúng thánh” (6).

Bên cạnh mâm cơm cúng thánh, còn có mâm cỗ chay với 4 loại bánh: bánh phong hình vuông 10cm dày 2cm, nhân đỗ xanh bên trong 4x4cm dày 0,5cm, nhân bánh phải được đặt vào chính giữa, mặt bánh phải nhẵn, bóng, tinh khiết không được sống, hấy, khi chấm mà nhân bánh đặt lệch là bị loại; bánh bìa hình vuông 20cm dày 2cm, không có nhân; nánh ống có đường kính 5cm, có nhân bằng đỗ xanh, đường kính của nhân là 1cm, yêu cầu phải tinh khiết (ba loại bánh này phải là hồng sắc, có mẫu quy định của làng); bánh giáo dùng bột gạo tẻ, bẹ cây chuối hột bóc vỏ bên ngoài, lấy màng bên trong cột chặt vào ống trúc có đường kính 1cm, khi dùng rút ống trúc ra, dùng ấm có vòi rót bột vào buộc miệng lại cho vào chõ xôi, yêu cầu dùng bạc (trắng) tinh khiết có chiều dài 20cm, đường kính 1cm, cầm bánh lên cúp ba vòng mà bánh không đứt mới đạt yêu cầu (7).

Việc thổi cơm thi, làm cỗ chay làng Ngọc Tiên là muốn thử thách tài khéo léo qua đôi bàn tay thô ráp vốn chỉ quen với công việc đồng áng quanh năm của đàn ông trong các giáp. Sự khéo léo ấy được thể hiện qua các công đoạn làm bánh và chất lượng sản phẩm cuối cùng. Tất cả các loại bánh, gạo xôi được xếp vào cùng một chõ, kỹ thuật đồ làm xôi chín dẻo, thơm, trắng bông tinh khiết. Cùng lúc đó, bánh cũng chín rền, đẹp màu, vuông thành sắc cạnh, có thể để được nhiều ngày mà không thiu, không mốc. Bốn loại bánh trong mâm cỗ chay tượng trưng cho lương khô mà thánh tổ Hoàng Văn Quảng đã làm ra giúp nghĩa quân có đủ lương thực ăn đường hay khi giặc giã, mưa gió, lụt lội… Sau một tiếng rưỡi đồng hồ, mâm cỗ chay phải hoàn tất có đủ 4 loại bánh, một bát chè đường, một bát cơm lồng, một cút rượu trắng, một đĩa trầu cau và một quả bưởi để dâng lên cúng thánh. Lễ cúng với mục đích cầu cho quốc thái dân an, làng xã thịnh vượng, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, vạn vật sinh sôi, phát triển. Sau một tuần hương, cỗ chay của các giáp được mang ra sân đình chấm điểm, Ban tổ chức trao giải cho cả 6 giáp, nhưng giáp nào đoạt giải nhất thì được dân làng ưu tiên cắt đặt công việc suốt cả năm. Xưa kia mâm cỗ đạt giải nhất được dành riêng để chánh tổng đem đi biếu các tổng bạn, vừa tỏ lòng kính trọng, hòa hảo và cũng muốn khoe mỹ tục của tổng mình. Khi tan hội, các giáp vào lễ hoàn làng, cỗ của giáp nào mang về giáp đó, chia đều cho tất cả thành viên trong làng. Nét đẹp đó còn lưu giữ đến ngày nay.

Thổi cơm thi trong lễ hội xuân của làng Ngọc Tiên, Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định là một lễ tục đẹp, mang đậm bản sắc dân tộc và sắc thái văn hóa làng quê. Hiện nay đời sống xã hội có nhiều thay đổi, nhiều luồng văn hóa ngoại lai xuất hiện, nhưng bản sắc làng quê không hề bị mai một. Văn hóa làng trở thành chất keo dính gắn kết tính cộng đồng giữa các thành viên, gia tộc, phe giáp trong làng xã. Chính điều đó mà ở Ngọc Tiên không có sự chia rẽ lương – giáo, sự hòa hợp này đã tạo nên tính ổn định và bền vững cho sự thịnh vượng chung của làng xã.

_______________

1. Tỉnh Đông (xứ Đông) là cách gọi của cổ nhân khi đứng từ Thăng Long – Hà Nội và nhìn về tứ trấn. Trong đó: xứ Bắc (Kinh Bắc) gồm có Bắc Ninh, Bắc Giang; xứ Tây/Đoài gồm Sơn Tây và một phần Hà Tây trước kia (nay đã về Hà Nội); xứ Đông gồm Hưng Yên, Hải Dương, một phần Hải Phòng; xứ Nam gồm một phần Hà Tây trước kia và Hà Nam, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình (xứ Nam lại chia thành Sơn Nam thượng gồm: một phần xứ Đoài, Hà Nam; Sơn Nam hạ gồm: Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình).

2. Sở dĩ xếp Phật giáo vào tín ngưỡng truyền thống là bởi người Việt theo loại hình tôn giáo này không thiên về sự cao siêu mà chủ yếu là những hoạt động tâm linh có tính chất thế tục. Để tiện cho việc tìm hiểu, chúng tôi tạm gọi nhóm dân không theo Thiên chúa giáo là bên lương hay lương dân.

3. Địa chí Nam Định, tr.157

4. Có thể coi đây là một công trình kiến trúc tiền thánh hậu phật.

5. Dong là cách gọi của người dân Nam Định về hệ thống các phân nhánh của các con sông, chạy ngang dọc trong các làng xã. Xưa kia, đây là hệ thống giao thông chính của cư dân trong vùng. Mặc dù sau này đường bộ phát triển, nhưng các con dong vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

6. Dẫn theo bài viết Làng Ngọc Tiên và lễ hội chùa, Báo Nam Định, số Xuân Canh Dần 2010.

            7. Ban quản lý di tích làng Ngọc Tiên. Lịch sử chùa đền mẫu làng Ngọc Tiên, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, lưu hành tại địa phương. Tài liệu do nghệ sĩ Nguyễn Công Vượng cung cấp.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 334, tháng 4-2012

Tác giả : Phạm Văn Lự

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *