Một chuyên khảo về tri thức văn hóa và đô thị


        Lâu nay, do ảnh hưởng của các quan niệm phát triển về kinh tế, nền văn minh loài người thường được chia thành hai giai đoạn: văn minh nông nghiệp là thời kỳ các nguồn lợi trên bề mặt của tự nhiên được con người tận dụng (săn bắt, hái lượm) hoặc khai thác (trồng trọt, nông nghiệp), chủ yếu bằng phương tiện thủ công hoặc dụng cụ kim khí, làm ra lương thực và thực phẩm để đáp ứng nhu cầu sinh tồn. Và, văn minh công nghiệp là thời kỳ con người sử dụng các phương tiện máy móc, sản xuất ra các sản phẩm hàng hóa để tiêu dùng. Chính quan niệm này vô hình trung đã tách quá trình phát triển của loài người thành hai kỷ nguyên khác nhau là nông nghiệp và công nghiệp, phân lập xã hội loài người ở hai khung cảnh sống của nông dân và công nhân, thuộc về hai môi trường sống riêng biệt là nông thôn và thành thị.

Từ đó, có quan niệm cho rằng thành thị chỉ thực sự hình thành và phát triển trong thời kỳ sản xuất công nghiệp, trước đó là các hình thái đô thị sơ khai, là cận đô thị hoặc tiền đô thị. Hoặc có quan niệm còn đi xa hơn (xuất phát từ đặc thù phương Đông gắn với truyền thống sản xuất nông nghiệp khác với phương Tây phát triển sản xuất công nghiệp) cho rằng phương Đông thuộc về văn hóa nông thôn, phát triển xã hội từ hình thái làng xã đến nhà nước, còn phương Tây thuộc về văn minh đô thị, từ các thành thị tự trị đến các lãnh địa phong kiến phát triển thành mô hình nhà nước hiện đại.

Kể từ nửa sau TK XIX, nhiều ngành khoa học phát triển mạnh mẽ nhờ chịu ảnh hưởng của học thuyết tiến hóa, cơ sở lý thuyết để con người lần đầu tiên phát hiện về nguồn gốc của các nền văn minh cũng như về sự tăng trưởng của các xã hội loài người. Các công trình nổi tiếng của Charles Robert Darwin về Nguồn gốc các loài (On the origin of the species, 1859), Edward Burnett Tylor về Văn hóa nguyên thủy (Primitive Culture, 1871), Lewis Henry Morgan về Xã hội cổ đại (Ancient society, 1877) đã đặt nền móng cho sự ra đời của học thuyết tiến hóa về văn hóa.

Học thuyết tiến hóa văn hóa là sự tiếp cận về mặt lý thuyết nhằm tìm cách mô tả và giải thích quá trình biến đổi lâu dài về văn hóa của các xã hội loài người. Học thuyết này dù quan niệm tiến hóa đơn tuyến hay đa tuyến đều khẳng định quá trình biến đổi hoặc tăng trưởng về văn hóa và xã hội trong thời gian và không gian do tác động của môi trường (Darwin), kỹ thuật (Morgan), dân số (Thomas R. Malthus, 1798). Nói cách khác, chính sự biến đổi của môi trường tự nhiên, sự tiến bộ về phương diện kỹ thuật, sự thích ứng của đời sống nhân văn là những nhân tố chủ đạo của quá trình biến đổi về văn hóa và xã hội.

Trong các khoa học về văn hóa, người ta thường dựa vào định nghĩa của Tylor để mô tả từng mặt sở đắc của con người, thuộc về các phương diện hoạt động khác nhau, gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục tập quán… Trong khi tính phức hợp toàn thể của các thành tố văn hóa đòi hỏi sự tổng hòa các hoạt động kể trên thì hầu như chưa thấy ngành học nào đề cập.

Riêng trong lĩnh vực đô thị, nhiều ngành khoa học khác nhau thường lấy đô thị làm đối tượng nghiên cứu: coi đô thị là địa bàn trọng tâm nảy sinh các hiện tượng xã hội (xã hội học đô thị), coi môi trường địa lý tự nhiên là yếu tố không tách rời quá trình phát triển của đô thị (địa lý nhân văn đô thị), coi các biểu hiện hoạt động của con người là đặc trưng văn hóa để phân biệt giữa các cộng đồng dân tộc trong môi trường xã hội ở đô thị (nhân học đô thị), ghi nhận các sự kiện, biến cố xảy ra ở đô thị theo trình tự biên niên (lịch sử đô thị), hoặc gần đây cùng với quá trình đô thị hóa theo chiều sâu đã có ngành học quan tâm đến các điều kiện và chất lượng sống ở đô thị (đô thị học),…

Cuốn sách Văn hóa đô thị giản yếu của tác giả Trần Ngọc Khánh đã đưa ra một cách nhìn khá mới mẻ về văn hóa và đô thị. Theo tác giả, văn hóa là một quá trình. Trong quá trình ấy, đô thị là vật chứa, lớp vỏ bề ngoài của vật được chứa là văn hóa. Văn hóa đô thị được coi là một thực thể toàn vẹn của văn hóa. Đó là sự tổng hòa “toàn thể các thành tố văn hóa của loài người trong quá trình hoạt động… nhằm tạo lập đời sống”. Các thành tố văn hóa, theo tác giả, là các thành tựu của xã hội loài người thuộc về đời sống vật chất (cơ sở kỹ thuật hạ tầng, nhà ở, đường sá, công trình…) và đời sống tinh thần (luật pháp, giáo dục, chính trị, xã hội, văn học…), được đặt trong quan hệ với đời sống nhân văn là các hoạt động tương tác làm chuyển hóa môi trường tự nhiên và xã hội, làm biến đổi môi trường sống.

Sự kết tinh các thành tố văn hóa hay phức hợp những giá trị của văn hóa không dựa vào hoạt động mà nhờ vào quá trình. Quá trình đô thị hóa bắt đầu kể từ “khi con người… tác động vào môi trường tự nhiên… để… tạo lập môi trường sống”. Quá trình tạo lập môi trường sống chính là quá trình tương tác giữa con người – môi trường, nhờ vào sự tiến bộ không ngừng về phương diện kỹ thuật, sự thích ứng của con người với các điều kiện và khung cảnh sống khác nhau. “Văn hóa vừa biểu hiện các hoạt động của con người để xây dựng môi trường sống nhân văn đối với thế giới bên ngoài, vừa biểu hiện các hoạt động của con người để xây dựng chính nó” (Bonnemaison, 2000). Đô thị, theo tác giả, là tập đại thành các hoạt động xây dựng môi trường sống ngày càng phong phú và tiến bộ của xã hội loài người; “văn hóa đô thị tổng hòa các giá trị văn hóa truyền thống với các tiến bộ văn minh của thời đại”.

Dẫu khoảng cách không gian giữa nông thôn và thành thị ngày càng thu hẹp, song nông thôn luôn là bộ phận hữu cơ, không tách rời khỏi thành thị trong quá trình đô thị hóa. Xuất phát từ quan điểm này, tác giả không đồng tình với quan niệm cho rằng đô thị là không gian phi sản xuất, vì sản xuất không đơn thuần làm ra sản phẩm chỉ bằng sức lao động mà còn là sáng tạo.

Chính vì dựa trên quan điểm nhân văn xuyên suốt, tác giả đã chỉ ra các quan niệm khác nhau cấu thành hệ thống quá trình hình thành và phát triển của đô thị. Đó là những ý tưởng đầu tiên về quy hoạch đô thị thời kỳ cổ đại của Hippodamos, Hippocrates từ TK V, IV trước CN, về mô hình đô thị lý tưởng của các triết gia Platon, Aristote; mô hình đô thị không tưởng của Thomas Moore, Robert Owen, Charles Fourier từ TK XVI đến TK XIX ở thời kỳ cận đại, hoặc mô hình hiện đại của Ebenezer Howard với thành phố – vườn, các nhà quy hoạch đô thị Haussmann, Le Corbusier…

Tuy nhiên, có thể nhận ra điều quan tâm lớn của tác giả chính là việc gợi mở để văn hóa đô thị trở thành một ngành học nhằm phổ cập các tri thức về văn hóa và đô thị. Theo tác giả, xuất phát từ học thuyết tiến hóa văn hóa và xã hội, văn hóa đô thị bắt đầu được chú ý kể từ đầu TK XX, tiêu biểu là công trình Thành thị tiến hóa (Cities in evolution, 1915) của Patrick Geddes. Cùng với sự xuất hiện trường phái xã hội học Chicago vào thập niên 20 TK XX ở Mỹ chuyên nghiên cứu đô thị. Tiếp đó, là một loạt công trình về văn hóa đô thị của Lewis Mumford, người được coi là nhà khai sáng ra ngành học.

Ngày nay, đô thị hóa đã trở thành quy luật và xu hướng phát triển tất yếu. Bên cạnh các tri thức về lịch sử, địa lý, văn học và xã hội, việc trang bị các tri thức về văn hóa đô thị cũng là yêu cầu cấp thiết, giúp con người hiểu biết nhiều hơn về các giá trị nhân văn của đô thị trong quá trình hình thành và phát triển, có thể thích nghi với môi trường sống của mình với tư cách là các chủ thể văn hóa đô thị trong thời đại mới.

Để xây dựng bố cục của tập sách, xuất phát từ quan điểm tiến hóa văn hóa, tác giả đã xác lập mối tương quan giữa thời gian, không gian và chủ thể văn hóa đô thị. Có lẽ chính nhờ vào quan điểm nhất quán theo học thuyết tiến hóa, mà thời gian văn hóa đô thị tiếp cận theo quá trình liên tục, không đi vào lối mòn mô tả diễn biến các sự kiện của lịch sử đô thị. Không gian văn hóa đô thị là một tập hợp các thành quả, thành tố văn hóa trong quan hệ tương tác với không gian tự nhiên, kỹ thuật và nhân văn, khác với các điều kiện tự nhiên của ngành địa lý nhân văn. Và, chủ thể văn hóa đô thị không giống với nhân học đô thị hoặc xã hội học đô thị, vì nó “gắn với hoạt động của con người trong quá khứ, hiện tại và tương lai thông qua các di sản văn hóa đô thị, chính sách văn hóa đô thị và môi trường văn hóa đô thị”.

Văn hóa đô thị giản yếu là cuốn sách dày 570 trang, do Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh phát hành từ tháng 2 – 2012, được bố cục thành 5 phần gồm 16 chương. Ở hai phần đầu gồm 5 chương, tác giả nêu ra các phương diện lý thuyết và thực tiễn của văn hóa đô thị; ba phần sau gồm 11 chương và phụ lục được trình bày theo cấu trúc thời gian – không gian và chủ thể văn hóa đô thị.

Phần lý thuyết văn hóa đô thị, tác giả chủ yếu giới thiệu một số lý thuyết tiếp cận của Denys Cuche trong công trình Khái niệm văn hóa trong các ngành khoa học xã hội (La Découverte, 1996, xuất bản lần thứ 3, 2004) và của J. Bonnemaison trong công trình Địa văn hóa do Maud Lasseur và Christel Thibault tập hợp các bài giảng sau khi giáo sư mất năm 1997 (CTHS, 2000). Theo Bonnemaison, văn hóa là toàn thể tri thức được tích lũy và lưu truyền trong lịch sử nhân loại, tồn tại theo bốn dạng thức: cái còn lại, cái thành tựu, cái sở đắc được lưu truyền và cuối cùng là phong tục.

Về quan hệ giữa văn hóa và đô thị, tác giả cho rằng: “Các nền văn minh lớn trong lịch sử đều không tách rời thành thị”, và lý giải : “Nếu văn hóa được khái quát là quá trình tạo lập nên môi trường sống của con người, thì đô thị không phải gì khác hơn là môi trường sống”. Về quan hệ giữa văn hóa đô thị và văn minh đô thị, tác giả cho rằng: “Văn hóa đô thị đòi hỏi quá trình lâu dài, gắn quá khứ với hiện tại, truyền thống với đổi mới, làm tăng trưởng bền vững môi trường sống; ngược lại, văn minh đô thị không chỉ đặt ra yêu cầu đổi mới, mà còn đòi hỏi sự thích ứng để hòa nhập với tiến bộ”.

Phần thực tiễn văn hóa đô thị, ngoài các định nghĩa, các thuật ngữ đô thị, các vấn đề về dân số và dân cư đô thị, nông thôn và thành thị, hiện tượng di dân để hình dung về các quá trình đô thị hóa, có thể chú ý sự biến đổi các chức năng của đô thị ngày nay theo phân loại của nhà địa lý người Pháp Beaujeu Garnier (1995), gồm có: chức năng làm giàu (công nghiệp, thương mại, du lịch, tài chính), chức năng trách nhiệm (hành chính, giáo dục, y tế) và chức năng sáng tạo, truyền đạt (giao thông vận chuyển, tổ chức biểu diễn, xuất bản, văn hóa và thể thao).

Đặc biệt đối với chức năng hành chính của thành thị, “không chỉ củng cố vững chắc hơn sự thống trị của nhà nước ở các địa phương, mà còn làm tăng trưởng dân số và kinh tế, mở đường cho việc thiết lập các cơ sở khác như trường học, bệnh viện, thương mại và các cơ sở dịch vụ tư nhân… dựa trên ưu thế tổ chức các hoạt động vận tải”. “Cơ cấu thương mại có đặc điểm phân chia không gian mang tính cạnh tranh; trong khi cơ cấu hành chính phản ánh sự áp đặt về tổ chức trên phạm vi quốc gia”; “tổ chức hành chính của thành thị, ngoài hoạt động kinh tế, có tầm ảnh hưởng và có ý nghĩa nhất đối với không gian xung quanh” (Marguerat, 1974).

Như vậy, theo truyền thống, thành thị được định nghĩa là vùng dân cư phi nông nghiệp. Tuy nhiên, thành thị có thể xác lập dựa trên căn cứ: cấp độ khu vực kinh tế thứ ba (không trực tiếp sản xuất); tầm ảnh hưởng của thành thị; chất lượng cơ sở trang bị tiện ích và các dịch vụ.

Phần thời gian văn hóa đô thị được phân bố nhiều nhất gồm 5 chương, tác giả đã khái quát sự kiện thành thị và các điều kiện ra đời của thành thị, các đặc trưng văn hóa đô thị từ thời cổ đại đến trung đại, cận đại và hiện đại; từ các thành thị Hy Lạp, La Mã đến các đại đô thị London, Paris, New York…; từ ý tưởng đầu tiên về xây dựng đô thị đến các mô hình thành thị lý tưởng hoặc không tưởng; từ điều kiện sống đến chất lượng sống ở thành thị.

Cách nay khoảng gần mười nghìn năm, thành thị xuất hiện đồng loạt ở nhiều khu vực như Lưỡng Hà, Ai Cập, Ba Tư, bắc Ấn Độ, bắc Trung Hoa… cùng với các tiến bộ khác về văn minh nông nghiệp, lịch pháp, sử dụng đồ kim khí, kỹ thuật ướp xác, tiền tệ, hàng hải, phát triển thương mại… Thành thị xuất hiện và phát triển chủ yếu ở các ngã tư, cảng sông hoặc cảng biển. Pirenne gọi thành thị là “con gái của thương mại”. Theo Lewis Mumford, thành thị phát triển phụ thuộc chặt chẽ vào nông nghiệp thịnh vượng; thực là sai lầm nếu tách thịnh vượng của thành thị ra khỏi vùng nông thôn nuôi sống họ.

Thành thị ra đời do kết hợp nhiều nhân tố, chủ yếu về kinh tế, xã hội, dân số và tổ chức. Tuy nhiên, sự phát triển của thành thị không hẳn thuộc về thời cận đại với cuộc cách mạng công nghiệp, mà trên thực tế đã được đặt nền móng từ các thành thị thời trung đại. Đó là sự đối trọng của hai thiết chế quyền lực: nhà thờ và thành thị, trong đó thành thị tồn tại chủ yếu nhờ chức năng tôn giáo, dựa trên cơ sở niềm tin cá nhân; 4/5 dân số trong các thành thị trung đại là thợ thủ công và công nhân sản xuất; thương mại phát triển mạnh qua các kỳ hội chợ; đa phần dân chúng là người tự do; quyền miễn trừ dành cho thợ thủ công và thương nhân tạo điều kiện để thành thị có quyền tự trị đầy đủ; nhiều cải tiến kỹ thuật về sản xuất và vận chuyển. “Phát minh máy dệt sử dụng bàn đạp chân là nguồn gốc các đảo lộn kinh tế, có thể so sánh với việc sử dụng năng lượng thủy lực trong công nghiệp kéo sợi sau đó năm thế kỷ” (Jean Gimpel, Cách mạng công nghiệp thời trung đại, 1975).

Cuộc cách mạng công nghiệp đã làm bùng nổ các vấn đề đô thị hóa. Các đô thị công nghiệp xuất hiện với ba đặc điểm là hầm mỏ, nhà máy và đường sắt; quy mô đô thị mở rộng, hình thành các đô thị vệ tinh; dân số thành thị bùng nổ theo cấp số nhân… đặt ra vấn đề chất lượng sống ở thành thị. Các nhà quy hoạch ra sức tìm kiếm một giải pháp nhân văn, xây dựng các mô hình đô thị không tưởng như đô thị bình đẳng tuyệt đối của Thomas Moore, đô thị hợp tác xã dành cho người nghèo của Robert Owen, đô thị tập đoàn của Charles Fourier… hoặc các mô hình đô thị hiện đại như thành phố – vườn của Ebenezer Howard, đô thị hiện đại của Le Corbusier…

Phần không gian văn hóa đô thị, tác giả quan niệm con người không chỉ phân bố địa lý trên các địa bàn dân cư mà luôn chuyển động trong các phạm vi không gian nhất định. Các hoạt động của con người là tác nhân làm biến đổi cảnh quan, hình thành không gian xã hội, không gian văn hóa, không gian kinh tế,… Bản thân con người cũng biến đổi theo môi trường và khung cảnh sống của mình. Cho nên, đó không phải là không gian tĩnh mà sống động, gọi là không gian được sản sinh hoặc không gian văn hóa đô thị, gồm có: không gian tự nhiên, không gian kỹ thuật và không gian nhân văn cấu thành môi trường văn hóa đô thị.

Đô thị càng phát triển càng chiếm hữu nhiều không gian tự nhiên, tạo ra hiện tượng tiến hóa địa hình, hòa nhập không gian tự nhiên vào không gian đô thị; trong khi không gian đô thị cũng không ngừng tiến hóa, chủ yếu nhờ phát triển các phương tiện giao thông vận chuyển. Tiến hóa không gian đô thị dẫn đến hiện tượng tiêu dùng không gian ngày càng nhiều, vừa tạo nên khung cảnh sống đô thị, vừa làm tăng trưởng không gian vùng ngoại vi, đặt ra yêu cầu về kỹ thuật tổ chức không gian đô thị: quy hoạch đô thị, tổ chức giao thông vận chuyển, hình thành các phân khu chức năng về thương mại, công nghiệp và các loại hình dịch vụ. Ngoài ra còn có không gian nhân văn, đáp ứng nhu cầu xã hội và nhân văn của các tầng lớp cư dân đô thị như không gian cư trú, không gian phân tầng, không gian công cộng…

Phần chủ thể văn hóa đô thị, tác giả đặt con người lên địa vị trung tâm của chủ thể văn hóa đô thị. Đó là con người làm gạch nối của quá khứ, hiện tại và tương lai trong di sản văn hóa đô thị, vì “nếu không có ký ức thì không có văn hóa và không có tương lai” (Bonnemaison, 2000); con người là đối tượng và tác nhân của các chính sách văn hóa đô thị, vì “…chính sách văn hóa là bản tuyên ngôn về chất lượng sống” (Arpin, 1993) nhằm tổ chức, xây dựng đời sống văn hóa cá nhân, cộng đồng dân tộc; môi trường văn hóa đô thị phát triển bền vững nhằm thỏa mãn các nhu cầu của đời sống con người hiện tại và dành cho các thế hệ tương lai. Đó là sự kết hợp giữa môi trường sinh thái tự nhiên, môi trường xã hội nhân văn và môi trường đô thị dựa trên bốn tiêu chí: lành mạnh, xanh, bền vững, sinh thái.

Do tầm quan trọng của việc xây dựng môi trường văn hóa đô thị, tác giả đã dành riêng một phụ lục để bàn luận sâu hơn các phương diện khác nhau về môi trường. Đây là một chủ đề thời sự trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, vì theo tác giả, môi trường là điều kiện sống, khung cảnh sống và chất lượng sống nhằm phát triển bền vững.

Tóm lại, tập sách Văn hóa đô thị giản yếu được biên soạn khá công phu và tương đối toàn diện về các vấn đề phát triển đô thị trong quá trình đô thị hóa. Có thể ghi nhận đây là một trong những tập sách chuyên khảo đầu tiên cung cấp nhiều tri thức phong phú, giúp người đọc có thêm cách nhìn thấu đáo hơn đối với những thành quả, nỗ lực và kỳ vọng của con người nhằm tạo lập môi trường sống nhân văn, xây dựng một thế giới nhân bản trong lịch sử văn minh nhân loại.

Tập sách thể hiện cố gắng đầy tâm huyết của tác giả, tuy nhiên vẫn còn khá nhiều thiếu sót. Chẳng hạn, trong không gian kỹ thuật (hoặc có thể nằm trong không gian nhân văn theo cách phân loại của tác giả), theo tôi không thể thiếu các cơ sở tín ngưỡng hoặc tôn giáo, vì ngoài việc thỏa mãn các nhu cầu về đời sống tâm linh, các thiết chế ở cơ sở này còn góp phần quan trọng tạo nên phần hồn đô thị. Trong thời gian văn hóa đô thị, ngoài các thành thị Hy Lạp và La Mã, sẽ là bức tranh đô thị hoàn chỉnh hơn nếu tác giả nêu ra đầy đủ hoặc chi tiết hơn các đô thị nổi tiếng thời cổ đại ở Ai Cập và vùng Trung Cận Đông, hoặc các đô thị cổ ở Trung Quốc, Ấn Độ. Trong đó, tất nhiên không thể thiếu các đô thị cổ ở Việt Nam. Một số đề mục còn khá rời rạc hoặc tản mạn, thiếu những lập luận hoặc phân tích sâu hơn về văn hóa đô thị đương đại, nhất là các vấn đề có liên quan đến lối sống văn hóa và văn minh đô thị,…

      Hy vọng tác giả tiếp tục tiếp cận thêm các nguồn tài liệu phong phú, tiếp thu được nhiều ý kiến phê bình, chỉnh sửa hoặc được nhiều đồng nghiệp nhiệt thành bổ cứu để công trình văn hóa đô thị ngày càng hoàn thiện, góp phần thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh của nước ta hiện nay.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 335, tháng 5-2012

Tác giả : Phan An

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *