Nghệ thuật cải lương trong bối cảnh hội nhập


Việt Nam có 54 dân tộc với những sắc thái văn hóa bản địa riêng, bổ sung cho nhau làm phong phú thêm nền văn hóa và củng cố sự thống nhất dân tộc. Vốn văn hóa truyền thống của dân tộc được gìn giữ và phát huy qua nhiều hoạt động văn hóa, trong đó có âm nhạc dân gian phong phú và đa dạng. Miền Bắc có hát quan họ, trống quân, giậm, phường vải, ví, xoan, cò lả… Miền Trung có hò sông Mã, mái nhì, mái đẩy, mái sấp, hụi, nện, lý mười thương… Miền Nam có hò Đồng Tháp, Bạc Liêu, Bến Tre, lý chuồn chuồn, dĩa bánh bò, che hường,… đặc sắc nhất là ca cổ, mà đỉnh cao là sân khấu cải lương.

Cải lương miền Tây Nam Bộ là một thể loại ca kịch sân khấu dựa trên những làn điệu đờn ca tài tử, có sự dung hợp với những tinh hoa của các thể loại khác như dân ca, ca kịch phương Tây (như chia màn, hồi; thay đổi lối ước lệ tượng trưng của hát bội, trích đoạn), thậm chí cả tân nhạc để làm phong phú thêm cho mình và phù hợp với thời đại. Cải lương chỉ mới hình thành không lâu, nhưng nó đã vượt trội nhiều thể loại ca kịch cũ, khẳng định vai trò trong lòng bao thế hệ người Việt Nam.

Theo nghĩa Hán Việt, cải lương là sửa đổi cho trở nên tốt hơn, thể hiện qua sân khấu biểu diễn, đề tài kịch bản, nghệ thuật biểu diễn, dàn nhạc và bài bản.

Năm 1920, Lư Hoài Nghĩa và Nguyễn Biểu Quốc viết hai câu liễn tặng đoàn cải lương Tân Thinh:

 

Cải cách hát ca theo tiến bộ

 

                                       Lương truyền tuồng tích sánh văn minh

Từ đó hai chữ đầu của hai câu liễn đã trở thành tên chính thức của loại hình nghệ thuật này.

Cải lương là một loại hình kịch hát có nguồn gốc từ miền Nam Việt Nam, hình thành trên cơ sở dân ca miền đồng bằng sông Cửu Long và nhạc tế lễ. Nó xuất phát từ thể loại đờn ca tài tử. Vào cuối TK XIX, đờn ca tài tử đã phát triển hoàn chỉnh cả đờn, ca, bài bản. Người ca diễn tả tâm trạng của bài hát bằng những điệu bộ, gọi là lối ca ra bộ, mang tính tự phát theo từng bài bản riêng. Đây là một giai đoạn quá độ, có tính quy luật của sự phát triển hình thức trình diễn ca nhạc dân gian, từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, có quá trình, có nhiều thử thách để tiến đến hình thức cao hơn, quy mô hơn.

Từ khi ra đời cải lương đã trở thành môn nghệ thuật truyền thống đặc sắc của dân tộc, bởi vì nó do người Việt Nam sáng tạo ra trên đất nước Việt Nam và phục vụ đời sống tinh thần cho nhân dân Việt Nam. Được lưu truyền qua nhiều thế hệ (vẫn còn nhiều gia đình nghệ sĩ mà cả 3, 4 thế hệ đều xuất thân từ nghệ sĩ cải lương), hiện nay, cải lương vẫn tồn tại với diện mạo độc đáo của nó. Hơn thế, cải lương còn là môn nghệ thuật mang đậm bản sắc dân tộc, là nét đặc trưng của văn hóa Việt Nam nói chung và văn hóa Nam Bộ nói riêng. Nó có nhiều đóng góp cho sự phát triển văn hóa đất nước.

Sân khấu cải lương mang đậm tính hiện thực, truyền tải được những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của nhân dân trong đời sống thường ngày. Trước khi cải lương xuất hiện, hát bội luôn chiếm vị thế cao trong đời sống. Tuy nhiên, hát bội thường mang đậm tính phong kiến, nội dung thường xoay quanh các vấn đề về vua, quan phong kiến và chỉ phục vụ trong triều đình hay các tầng lớp phong kiến. Còn tầng lớp bình dân và dân nghèo ít có điều kiện tiếp xúc và hưởng thụ. Hay nhạc tế lễ thì lại mang đậm tính tôn giáo, do đó, không được đông đảo quần chúng nhân dân yêu thích. Ngược lại, cải lương gắn bó, gần gũi với quần chúng nhân dân lao động hơn. Ngay cả mục đích xuất phát của loại hình nghệ thuật này là phục vụ cho dân nghèo chứ không phải cho tầng lớp quý tộc cũng đã minh chứng điều đó. Quan trọng hơn hết là nội dung của nó thể hiện cuộc sống lao động của nhân dân và có khả năng phản ánh hiện thực xã hội lúc bấy giờ.

Cải lương còn có nhiều ưu thế trong việc thể hiện tâm tư, tình cảm của nhân dân, nhất là nhân dân ở một vùng đất rộng lớn xa triều đình, bị phong kiến bóc lột, sau đó lại bị thực dân đày đọa, nhưng luôn luôn mang tinh thần, hào khí, nghĩa hiệp chống áp bức bất công. Cải lương ra đời ở miền Nam và nhanh chóng phát triển rộng khắp các miền đất nước, nơi nào cũng tiếp nhận dễ dàng, được công chúng, báo chí ca ngợi và đánh giá cao. Bởi lẽ, cải lương đã thể hiện được nhiều sắc thái tình cảm, từ niềm vui trong lao động, tình yêu (quê hương, đất nước, lứa đôi), hạnh phúc đến nỗi đau khổ khi ly biệt, nhớ nhung, tang tóc hay bị áp bức, bóc lột, đầy ải…, qua đó có thể gửi gắm tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Một số vở tiêu biểu như Đời cô Lựu, Tô Ánh Nguyệt, Lá sầu riêng, Nửa đời hương phấn… được không ít khán giả thuộc nằm lòng.

Cải lương còn gần gũi với nhân dân ở góc độ ca từ và nhịp điệu. Không riêng gì nghệ sĩ mà ngay cả những người không am tường về cải lương cũng có thể ngâm nga vài ba câu vọng cổ những lúc vui buồn.

 

Sân khấu cải lương còn là nơi để các nghệ sĩ bày tỏ tình yêu nước, thương dân, căm phẫn chế độ phong kiến, áp bức bóc lột, nhất là căm thù bọn thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Khi mới hình thành cải lương là công cụ để các sĩ phu yêu nước hoạt động cách mạng. Lời ca cải lương đã góp phần phản ánh hiện thực đương thời và nhiều vở có nội dung yêu nước, tiến bộ. Nhất là khi phong trào Duy Tân bị thực dân Pháp đàn áp, một số chí sĩ bị Pháp bắt đi đày hay quản thúc, đã tham gia soạn lời ca thì những vở cải lương mang ẩn ý chống Pháp, đồng thời phản ánh tâm sự của người yêu nước muốn vùng lên chống Pháp đòi lại đất nước lại càng nhiều. Điều đó được thể hiện qua nhiều tác phẩm tiêu biểu như San hậu, Tiếng hò sông Hậu

 

Sân khấu cải lương đã góp phần tạo nên những đặc trưng rất Việt Nam, làm giàu thêm cho nền văn hóa dân tộc và xác định bản sắc văn hóa Việt Nam. Quá trình hình thành và phát triển của sân khấu cải lương không dài (khoảng hơn 80 năm), tuy nhiên, loại hình nghệ thuật này đã khẳng định được mình, không những phát triển trong nước mà còn cả nước ngoài. Ngày nay, khi nói đến cải lương, người ta nghĩ ngay đến Việt Nam, bởi lẽ Việt Nam là cái nôi sinh ra nó. Hơn nữa, nhiều đồng bào Việt Nam đang định cư ở nước ngoài vẫn còn rất ghiền cải lương và mong muốn thưởng thức nó mỗi khi nhớ về quê hương.

Xu thế hội nhập hiện nay đã tạo những cơ hội cũng như thách thức đối với loại hình nghệ thuật này. Là cơ hội, bởi vì Việt Nam sẽ có điều kiện để quảng bá, giới thiệu cải lương với bạn bè thế giới, cũng như có thêm mảnh đất mới cho cải lương phát triển. Nhưng đồng thời đây cũng là những thách thức rất lớn mà cải lương, cũng như bất kỳ loại hình nghệ thuật nào khác, cần phải vượt qua, nếu không thì nguy cơ suy yếu và có thể sẽ không tồn tại được. Bởi vì, khi nhiều dòng văn hóa tràn vào Việt Nam mang theo nhiều loại hình giải trí mới, lạ, hấp dẫn như: nhạc trẻ, nhạc nước ngoài, phim, internet… chia sẻ khán giả với cải lương, thì cải lương bắt buộc phải tìm cách thu hút lại công chúng của mình, nhất là giới trẻ ngày nay, dường như không còn thiết tha với cải lương, quay lưng với cải lương.

Thực tế cho thấy, cải lương ngày nay đang gặp những khó khăn và nguy cơ bị lãng quên là rất cao nếu như chúng ta không biết cách bảo tồn và phát huy chúng. Nếu như trước đây, hầu hết các tỉnh đều có đoàn cải lương chuyên nghiệp, có tỉnh có rất nhiều đoàn, riêng tỉnh Hậu Giang nhiều năm có tới 4 đoàn thì ngày nay cả đồng bằng sông Cửu Long chỉ có 8 đoàn, thậm chí có tỉnh không còn đoàn nào. Ví dụ Đoàn cải lương Chuông Vàng (Sóc Trăng) từ Đoàn cải lương Sông Hậu 1 ra đời năm 1961, cách đây 3 năm đã giải thể. Sóc Trăng hiện là 1 trong 5 tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long không còn đoàn cải lương chuyên nghiệp.

Từ thực tiễn trên, chúng tôi hy vọng rằng loại hình nghệ thuật đặc sắc này cần được bảo tồn và phát huy hơn nữa trong bối cảnh hội nhập. Để làm được điều này đòi hỏi phải có sự chung sức của nhiều người, nhiều giai tầng xã hội khác nhau. Ở đây, với suy nghĩ chủ quan, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp với mong muốn góp phần bảo tồn nghệ thuật cải lương trong bối cảnh hiện nay.

 

Cải lương phải được hiểu theo đúng nghĩa của nó: cải cách hát ca theo tiến bộ, lương truyền tuồng tích sánh văn minh. Từ bản tổ với nhịp đôi của Dạ cổ hoài lang, các bản vọng cổ đã phát triển thành nhịp 32, lại kết hợp tân cổ giao duyên, rồi 6 câu rút xuống 4 câu… đã làm cho sân khấu cải lương đầy sức sống. Điều này có nghĩa: cải lương là tiến bộ, văn minh, là không ngừng cải cách. Do đó, những soạn giả, người viết kịch bản, diễn viên, nghệ sĩ cải lương cần ý thức được điều này, từ đó không ngừng cải cách, không ngừng phát triển để cải lương ngày càng mới mẻ hơn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế hơn nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong tình hình mới. Nhiều giá trị đổi thay, tư duy đổi thay, cuộc sống đổi thay thì bắt buộc cải lương phải đổi thay theo.

 

Cải lương phải được cải tiến cả về mặt nội dung lẫn hình thức, sao cho có ngày càng nhiều vở cải lương đi vào lòng người như nó đã từng làm được khi mới ra đời. Về nội dung, nên khai thác nhiều khía cạnh mới của đời sống như: tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong 2 cuộc kháng chiến, những thay đổi của cuộc sống từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, những gương anh hùng lao động, những chuyển động mạnh mẽ thời kỳ đổi mới làm đổi thay toàn diện đất nước, những giá trị đạo đức trong thời kỳ hội nhập,… Về hình thức, phải cải tiến hình thức thể hiện như: trang phục, cảnh trí sân khấu… Ví dụ: vở Kim Vân Kiều được cải tiến lại gần đây trên nền tảng nội dung cũ nhưng mới về hình thức đã thu hút được sự chú ý của khán giả nhất là những khán giả yêu thích cải lương và làm sáng lên niềm tin về sự phát triển cải lương ngày mai. Chính vì thế, trong xu thế hội nhập hiện nay, muốn cải lương sống lại thì bản thân cải lương phải thay đổi để khẳng định mình và phát triển.

Bên cạnh việc cải tiến nội dung và hình thức, cải lương cũng cần được giới thiệu, quảng bá bằng nhiều hình thức, biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút, khơi dậy, đánh thức sự đam mê của quần chúng, đặc biệt là tầng lớp thanh niên.

Cần phát hiện và bồi dưỡng đội ngũ diễn viên kế cận, dự bị. Như mọi môn nghệ thuật khác, cải lương cần năng khiếu và phải phát hiện sớm, thu hút được năng khiếu trẻ. Việc phát hiện người có năng khiếu có thể thông qua các cuộc thi hát do đài truyền hình, đài truyền thanh tổ chức. Hiện nay một số địa phương đã làm tốt công tác này như Đài truyền hình TP.HCM có giải Trần Hữu Trang nay là giải Thanh Tâm, hay giải Tuyển chọn giọng ca cải lương hàng tuần; Đài truyền hình Cần Thơ có giải Mộc quán Nguyễn Trọng Quyền, Truyền hình Vĩnh Long có giải Út Trà Ôn…

Mặt khác, Nhà nước đứng ra tổ chức và quản lý các đoàn cải lương, nghệ sĩ được đào tạo quy củ có tính chuyên nghiệp, nhưng đa số diễn phục vụ không doanh thu và quy định trở thành biên chế chính thức của đoàn lại rất khó. Với điều kiện “tối thiểu thấp nhất là diễn viên hạng III phải có bằng tốt nghiệp THPT, bằng trung cấp chuyên môn, bằng A Anh văn, vi tính…” thì khó có thể thu hút được nhân tài vào các đoàn cải lương được. Bởi vì, diễn viên không biên chế thì lương chỉ khoản 700.000/ tháng, với mức lương như vậy, trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay, họ không thể nào theo đuổi nghề được. Vì vậy, theo tôi, nhà nước khi quy định điều kiện biên chế trong các đoàn cải lương chuyên nghiệp của tỉnh, cần ưu tiên về mặt năng khiếu vì đây là môn nghệ thuật đòi hỏi nhiều về năng khiếu hơn trình độ học vấn, tin học… mà chỉ nên tạo điều kiện cho họ có thể học tập nâng cao trình độ (tất nhiên là chỉ khuyến khích chứ không phải là bắt buộc).

Cải thiện đời sống của nghệ sĩ là vấn đề hết sức cần thiết. Nhiều thế hệ nghệ sĩ đã đam mê theo đuổi nghệ thuật cải lương, nhưng trong giai đoạn hiện nay, chúng ta chưa có cái nhìn đúng đắn về sân khấu cải lương và dường như muốn quên lãng. Do đó, nghệ sĩ không còn đất để diễn, họ phải lui về phục vụ ở nông thôn, nơi còn gắn bó ít nhiều với cải lương. Đời sống của anh em nghệ sĩ gặp rất nhiều khó khăn, lương bình quân khoản 1.300.000/tháng. Mỗi đêm có diễn thì bồi dưỡng thêm 100.000/đêm và phải lưu diễn thường xuyên. Nhiều người đã không thể bám lấy nghề, một số đã rời khỏi đoàn hát để tìm một lối thoát mới về kinh tế, trong số đó, có những người chọn việc mở những quán ca cổ để kiếm sống. Chính vì thế, muốn bảo tồn và phát huy loại hình nghệ thuật này thì trước hết phải chăm lo đời sống cho nghệ sĩ để họ yên tâm cống hiến cho nghệ thuật. Thêm vào đó, hàng năm nhà nước nên có chính sách khen thưởng đối với những người có nhiều đóng góp cho cải lương. Trước đây, nhà nước cũng có nhiều danh hiệu dành cho nghệ sĩ cải lương như: nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân. Tuy nhiên, điều kiện để được xét các danh hiệu này rất khó (thường kèm theo đòi hỏi về mặt trình độ học vấn) nên số nghệ sĩ được tặng các danh hiệu này còn rất hạn chế. Nhất là danh hiệu nghệ sĩ nhân dân, nếu xét riêng về lĩnh vực sân khấu cải lương thì không nhiều, có thể đếm trên đầu ngón tay. Thiết nghĩ, nhà nước cũng cần có những chính sách mới thoáng hơn trong việc xem xét thành tích đóng góp của nghệ sĩ, đây sẽ là động lực giúp họ trụ vững và tâm huyết với nghề.

         Là mục tiêu, động lực phát triển kinh tế xã hội; văn hóa cũng là nền tảng tinh thần, nhân tố quan trọng tạo nên khối đại đoàn kết dân tộc. Điều này đã được Đảng ta khẳng định và được sự hưởng ứng, ủng hộ của toàn dân. Trong nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam, cải lương là loại hình nghệ thuật độc đáo, thể hiện bản sắc của văn hóa Nam Bộ nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung. Việc bảo tồn và phát huy sân khấu cải lương không chỉ là của những người làm nghề mà còn là nhiệm vụ của mọi công dân nhằm nung nấu chí khí quật cường bất khuất của dân tộc, nuôi dưỡng tình yêu quê hương, tình thương dân tộc, đồng thời, góp phần quan trọng trong việc xây dựng văn hóa Việt Nam, tạo nền tảng tinh thần vững chắc để xây dựng đất nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


Nguồn : Tạp chí VHNT số 334, tháng 4-2012

Tác giả : Trương Kim Phụng

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *