Ngụ ngôn loài vật trong truyện cổ phật giáo


Bộ ba tập Truyện cổ Phật giáo do Nxb Tôn giáo ấn hành ra mắt bạn đọc vào quý 1 năm 2007 (tác giả Minh Chiếu sưu tập, giới thiệu) là bộ sách được tuyển chọn khá công phu, in đẹp và trang trọng. Tập 1 gồm 99 truyện, tập 2 cũng gồm 99 truyện và tập 3 gồm 97 truyện. Theo lời người tuyển chọn, tác giả đã chọn từ hàng chục ngàn truyện cổ Ấn Độ, Nhật Bản, Miến Điện, Việt Nam… để lấy ra gần 300 truyện tiêu biểu hơn cả. Những ai quan tâm, muốn tìm hiểu về lịch sử, triết lý cơ bản, sự triển khai tư tưởng Phật giáo không phải bằng lối thuyết lý khô khan mà bằng những câu chuyện kể sinh động, những hình tượng nghệ thuật văn học mang giá trị nhận thức và giá trị thẩm mỹ cao đẹp thì nên tìm đọc bộ sách này.

Ngoài một số truyện cổ mang tính chất đặc trưng cho truyện cổ Phật giáo thì người đọc có thể thấy đây là tập truyện cổ tích đặc sắc cũng với không gian trần thế và không gian tiên cảnh huyền ảo, những ông vua, bà hoàng hậu, nàng công chúa, người tiều phu, người đánh xe ngưạ, người đánh cá, những con vật quen thuộc… Nét đặc biệt là sự hiện diện thường xuyên của Đức Thế Tôn, các chư phật, tăng ni, tỳ kheo cùng sự thấm đẫm triết lý Phật giáo trong từng câu chuyện.

Khó có thể giới thiệu một cách ngắn gọn về gần 300 câu chuyện có ý nghĩa thuyết giáo mà vẫn hấp dẫn ấy. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi đi vào một mảng tiểu loại chiếm số lượng không lớn nhưng cũng rất độc đáo và đáng nói, mảng truyện ngụ ngôn, mượn thế giới loài vật để nói về thế giới loài người.

Như tên gọi của nó, ngụ là ngụ ý, ngôn là ngôn từ. Ngụ ngôn là những điều được ngụ ý gửi gắm kín đáo đằng sau lời phát ngôn. Truyện ngụ ngôn là một thể loại tự sự văn học đã xuất hiện từ thời cổ đại và phát triển trong suốt các thời kì tiếp theo. Với tính chất ẩn dụ của nó, truyện ngụ ngôn đã gây ra không ít sự tranh luận cũng như sự ngạc nhiên, sửng sốt của các thế hệ người tiếp nhận bởi trí tuệ, tài năng mà các tác giả vô danh và hữu damh đã sáng tạo và gửi gắm lại cho hậu thế. Các triết gia vĩ đại trên thế giới từ cổ chí kim đã nhận thấy không có cách trao truyền tư tưởng của mình tới các môn sinh, tới đông đảo nhân dân nào hiệu quả hơn là thể hiện chúng qua những câu chuyện ngụ ngôn sinh động, giàu tính thuyết phục.

 Hơn ba mươi truyện ngụ ngôn trong tập truyện cổ Phật giáo (chiếm tỉ lệ hơn 10%) đã thể hiện rõ điều nhận định không mới vừa nêu. Truyện ngụ ngôn cũng như tục ngữ là các thể loại đậm chất triết lý thường mang tính phổ quát. Các dân tộc gặp gỡ nhau ở lối tư duy hình tượng và tư duy khái quát trong quá trình sáng tạo nội sinh và giao lưu, tiếp biến cũng là điều dễ hiểu. Thực ra chúng ta gặp ở đây một số truyện ngụ ngôn hoặc truyện cổ tích loài vật quen thuộc của các dân tộc, các quốc gia như Cò và cua, Chồn và sư tử, Mối tình thân hữu, Dưới gốc mai vàngkhông chỉ phục vụ cho mục đích truyền giảng đạo lý Phật giáo. Hiển nhiên là đúng như tên gọi của nó, phần lớn truyện ngụ ngôn trong bộ truyện này rất đặc trưng cho sự thuyết lý tư tưởng Phật giáo. Thế giới nhân vật trong các truyện này cũng thật đa dạng gồm các loài vật được thuần dưỡng hay hoang dã, các loài thủy tộc hay ở chốn sơn lâm nhưng dễ nhận thấy rằng những con vật hoang dã chiếm tỷ lệ lớn hơn. Trong thế giới những con vật ấy, một số vốn tượng trưng cho thế lực mạnh và thống trị trong giới tự nhiên đồng thời biểu trưng cho thế giới ác của xã hội loài người lại gây được thiện cảm và ấn tượng đậm nét – đó là sư tử, cọp, voi dữ trong các truyện Đức Phật với con voi dữ, Con sư tử trọng pháp, Hai con cọp tinh ở Hoành Sơn… Trong truyện ngụ ngôn hoặc truyện cổ tích loài vật thông thường, những con vật như hổ, báo, sư tử luôn ức hiếp, tàn sát không thương tiếc những con vật yếu về thể lực bởi đặc trưng sinh học của loài thú dữ ăn thịt. Ngược lại, những con vật yếu về sức lực, về địa vị thống trị lại là những nhân vật thông minh, giàu lòng nhân ái, biết yêu thương đồng loại, luôn quý trọng tình đoàn kết bằng hữu, nghĩa bạn bè. Kết thúc truyện thường là sự thắng lợi của những nhân vật có chính nghĩa.

Nét khác biệt chúng tôi muốn nói đến là những bài học về chữ nhẫn, chữ tín, chữ từ bi lại được thể hiện đậm nét ở các con vật vốn mang tính ước lệ tượng trưng cho sự độc ác, hung dữ như sư tử trong truyện Con sư tử trọng pháp. Con sư tử có bộ lông óng ánh sắc vàng thường đến nghe Phật tụng kinh, thuyết pháp. Nó bị một người thợ săn giả mặc áo cà sa để mưu giết, lột da dâng cho vua mong lĩnh thưởng. Sư tử quấn quýt bên chân người thợ săn và bị mắc lừa, trúng tên độc. Nó đau đớn quá, rống ngược lên, muốn nhảy tới vồ vị sa môn giả kia nhưng lại nghĩ rằng: “Nay ta vồ giết thời không khó gì, nhưng ta sẽ bị các đức Phật quở trách và làm cho người đời không thể phân biệt người lành kẻ ác. Người thợ săn độc ác âm mưu hại ta, nếu ta không nhẫn thì có khác gì người ấy. Người tự nhẫn sẽ được mọi người yêu thích, người không nhẫn sẽ bị mọi ngừời căm ghét…”(tr.361, t.1).

Voi hung hăng trong truyện Đức Phật và con voi dữ phóng tới trước mặt đức Phật khiến mọi người phập phồng lo sợ. Nhưng ngài vẫn điềm nhiên đem tất cả lòng từ bi vô lượng để đối lại với sự hung dữ của con voi. Voi như bị một sức thôi miên huyền bí, hạ vòi và từ từ quỳ ngay trước mặt ngài. Đức Phật dịu dàng đưa tay thoa vào đầu voi, quy y cho voi và nói “Này voi ơi! Ngươi nên ăn ở hiền lành để đạt đến yên vui chớ nên hung hăng như trước nữa… Từ đó về sau, voi trở nên hiền lành dễ thương” (tr.323, t.1).

 Xu hướng mượn các con vật để đề cao sự trung nghĩa, tôn trọng chữ tín, biết hy sinh cho đồng loại từ bi hỉ xả theo quan điểm của đạo Phật là một chủ đề đậm nét trong các truyện ngụ ngôn này. Có thể điểm đến truyện Con voi trung nghĩa, Vườn nai, Nai hiền, Con khỉ nhân từ… Con voi mắc nạn được người thợ rừng cứu giúp, nó cảm ơn cứu mạng đã cần mẫn trả nghĩa ân nhân suốt cả cuộc đời. Đến khi con voi ấy tuổi cao, sức tàn lực kiệt, con của nó là chú voi trẻ dũng mãnh lại thay cha trả nghĩa cho người đã có ơn nghĩa với gia đình mình. Truyện Vườn nai kể về một khu rừng hàng ngàn con nai sinh sống. Chúng chia làm hai tốp do hai con đầu đàn cai quản. Một con hiền từ, nhân nghĩa, còn một con kiêu ngạo, hẹp hòi, háo danh. Cuộc sống yên bình, vô tư của vườn nai bỗng nhiên bị nhốn nháo, hoảng loạn vì mệnh lệnh của vua Phạm Đạt Đa ở thành Ba La Nại tiêu diệt khu rừng nai sinh sống. Để cứu nguy cho hàng ngàn con nai, nai đầu đàn vốn thông minh, nhân từ bất chấp hiểm nguy, đi thẳng đến chỗ nhà vua xin được hoãn sự chết cho cả đàn. Đàn nai thay vì tất cả bị chết thiêu khi ngọn lửa cháy rụi khu rừng thì từng con một nộp mạng vào mỗi ngày. Rồi khi đến lượt một con nai cái đang có chửa đến phiên phải nộp mạng, nó van xin voi đầu đàn kiêu hãnh cho nó hoãn tới phiên sau để nó sinh nở mẹ tròn con vuông đã. Voi kiêu hãnh, hẹp hòi không chấp thuận lời thỉnh cầu của nó. Nai mẹ liền tìm đến nai chúa nhân từ kêu xin. Vừa nghe qua, nai chúa nhân từ chấp nhận liền. Nó suy nghĩ chọn con nào đi thay thế bây giờ, dễ gì đã có, thôi ta hãy đi nạp mạng, nếu không thì tức khắc chết rụi cả đám. Nó liền bình tĩnh ra đi… Khi nghe nó trình bày đầy đủ lý do mà nó đi nộp mạng sớm như vậy. Nhà vua nghe xong liền đổi ra dáng đăm chiêu nghĩ ngợi: “Không ngờ, không ngờ trong loài thú mà có con nai đầu đàn này vừa thông minh, nhân từ đại lượng vừa can đảm thành tín như vậy. Nó là chúa đầu đàn của chúng nó, nó biết yêu thương, biết can đảm hy sinh cho sự sinh tồn của đàn nó như vậy. Còn ta, ta là chúa đầu đàn của một đám thần dân rộng lớn, ta có bằng nó không? Có lẽ ta sẽ không bằng! Không bằng! Nếu bây giờ ta chỉ nghĩ đến một chút khoái khẩu trong giây lát mà giết nó, thì khác nào ta tự chôn vùi lương tâm sâu thêm một từng nữa. Ta giết nó tức là ta giết một đạo lý sống cao thượng, giết một tình thương rộng lòng quả cảm hy sinh, tức là giết hết những gì cao quý nhất của cuộc đời. Ô nếu cuộc đời không từ bi, thiếu trí tuệ, không dũng cảm chỉ là cuộc đời trống rỗng tối tăm”. Sau đó, vua hạ lệnh đưa nai trở về rừng và truyền cho toàn dân từ nay không ai được phép xâm phạm đến khu rừng cũng như không ai được phép bắt nai, giết nai làm thịt (tr.248, t.2). Tương tự, chim nhạn đầu đàn trong truyện Động mối từ tâm do muốn cứu một chim nhạn khác mà bị sa vào bẫy của người săn chim. Một con chim nhạn khác thấy chim nhạn đầu đàn vì cứu bạn mà bị nhốt trong lồng, “nó sà ngay xuống bên lồng, hai chân bám vào hai vành tre, mòm cất tiếng kêu thê thảm, máu miệng trào ra…”. Người thợ săn thấy cảnh tượng ấy, ngẫm nghĩ rằng: “Loài chim muông còn biết thương nhau đến đỗi quên cả thân mạng như thế này. Ta há dễ nhẫn tâm giết hại chúng hay sao?”. Giống như chim nhạn, chim oanh vũ xuất hiện trong hai truyện Lòng hiếu của chim oanh vũ, Chim oanh vũ cứu đàn cũng là những con chim chí hiếu chí tình, sẵn sàng hy sinh thân mình vì đồng loại. Có lẽ không phải bình luận gì nhiều về bản thân hình tượng nghệ thuật được sáng tạo thông qua các cốt kể với các chi tiết sinh động và lời chiêm ngẫm mang tính giáo dục sâu sắc của các nhân vật người khiến người đọc, người nghe cảm xúc chân thành, tự thấy tâm hồn mình sáng trong, thuần khiết hơn.

Trong các truyện ngụ ngôn, chủ đề và nhân vật chính được xây dựng không chỉ hướng đến cảm hứng ngợi ca mà còn hàm chứa ý nghĩa phê phán những kẻ kiêu ngạo, bất nhân, gian trá, lấy oán trả ân. Bài học phản diện ấy được thể hiện đậm nét qua những truyện kể ngắn gọn như Chồn và sư tử, Cú quạ thù nhau… Chồn nắm được điểm yếu của sư tử là kiêu ngạo, thích nghe những lời tâng bốc về sức mạnh của mình nên hay tâng bốc sư tử, rồi bày cho sư sử đi ăn trộm ngựa quý của vua. Bất chấp lời khuyên can của cha mẹ, vợ con, sư tử ăn trộm ngựa của vua, bị trúng tên của lính coi ngựa, ân hận thì đã muộn. Chồn thấy sư tử bị nạn đã đánh bài chuồn. Bài học triết lý được rút ra ở cuối truyện là: “Nghe lời chê bai mà giận là làm ngòi cho người gièm pha, nghe lời khen ngợi mà mừng là làm mồi cho lời nịnh hót”.

Một chủ đề khá thú vị, cũng có thể là khá bất ngờ đối với một số người cho rằng giáo lý đạo Phật chỉ chú ý đến chữ tâm mà không quá đề cao chữ trí khi tiếp xúc với các truyện như Chết vì không chịu vâng lời, Dắt nhau xuống giếng. Đây là câu chuyện ngắn nên có thể trích lược: Đời xưa, có một bầy rùa rất đông, có một con rùa chúa (tiền thân của Phật Thích ca) rất thông minh. Trên cây đại thụ có một bầy thằn lằn thường hay tự thả mình từ trên cành cao xuống để khoe tài. Rùa chúa thấy thế khuyên đám rùa nên chuyển đến nơi khác sinh sống kẻo có ngày mang vạ do hành động của thằn lằn. Có nhiều con nghe theo nhưng cũng có nhiều con không chịu đi. Quả nhiên sau này một con thằn lằn đang khoe tài thì rơi ngay vào tai một con voi. Voi kêu la ầm ĩ. Cả bầy voi hoảng sợ, bỏ chạy tán loạn. Bầy rùa dưới gốc cây bị voi dẫm đạp, chết rất nhiều. Lời quy châm được rút ra cuối truyện là: “Trí tuệ là gốc của muôn hạnh lành. Ngu si là nguồn tội lỗi”. Đàn khỉ trong truyện Dắt nhau xuống giếng không nắm được đặc điểm cũng như quy luật của thế giới vật chất, nhìn xuống giếng thấy bóng trăng tưởng trăng rơi xuống giếng nên con đầu đàn bám vào một cành cây, các con khác bám đuôi nhau xuống giếng để vớt trăng. Nặng quá, cành cây bị gãy, cả đàn khỉ chết đuối. Lời bàn ở cuối bài rằng:

Một con ngu dại đã xong

Thương thay cả lũ cùng không biết gì

Nhân vật được hư cấu khá đa dạng. So với các truyện ngụ ngôn thông thường, nhân vật ở đây không mang tính ước lệ, công thức ví như sư tử, cọp, voi dữ phải là kẻ ác, là những kẻ đáng phê phán nhưng các con vật này dù có chức năng sinh học của loài ăn thịt thì khi thấm nhuần giáo lý Phật pháp, chúng lại là những kẻ phát tâm từ bi, trung tín đáng nể trọng.

Kết cấu truyện ngụ ngôn loài vật trong truyện cổ Phật giáo ngắn gọn, ngắn gọn hơn rất nhiều những truyện kể mà nhân vật chính là con người. Nét đặc biệt trong kết cấu ở những truyện này là ở phần mở đầu và kết thúc. Ví dụ: “Ngày xưa, có một con khỉ lớn, sức lực mạnh mẽ, trí não thông minh và lòng nhân từ của nó chưa chắc người đời bì kịp (Tiền thân của Đức Phật Thích Ca)” (tr.551, t.1) hoặc: “Đời xưa có một bầy rùa rất đông ở dưới gốc cây đại thọ. Trong bầy có một con rùa chúa (Tiền thân của Đức Phật Thích Ca)” (tr.554, t.1)… Kết thúc các truyện thường là lời kệ hoặc lời quy châm mang tính chất triết lý rút ra từ lời răn của Phật hoặc những câu châm ngôn giúp người đọc, người nghe chiêm nghiệm sâu sắc hơn ẩn dụ nghệ thuật được gửi gắm trong câu truyện. Các tình tiết được dẫn dắt tự nhiên. Cách kể chuyện, miêu tả thế giới loài vật khá tinh tế, hành động và suy nghĩ của các nhân vật tạo được xúc cảm chân thành cho người nghe.

        Bản thân hình tượng nghệ thuật đã có sức mạnh đặc biệt mà sự tiếp nhận của mỗi một con người là không có giới hạn. Các tín đồ Phật giáo yêu thích những truyện cổ này là lẽ thường. Người không phải tín đồ Phật giáo cũng có thể tìm thấy ở bộ ba truyện cổ Phật giáo này những triết lý nhân sinh cao đẹp, tình yêu thương đồng loại, trân trọng muôn vật quanh ta và suy ngẫm về phương thức ứng nhân xử thế trong cuộc đời.


Nguồn : Tạp chí VHNT số 300, tháng 6-2009

Tác giả : Phạm Thu Yến

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *