Nguồn lực quan trọng trong tổ chức và quản lý hoạt động văn hóa

Quản lý và tổ chức các hoạt động văn hóa ở cơ sở là công việc vô cùng quan trọng, nhằm đảm bảo, duy trì đời sống văn hóa thường nhật của quần chúng nhân dân. Để làm được điều này cần sức mạnh tổng hợp của nhiều nguồn lực, trong đó đội ngũ cán bộ văn hóa cơ sở (VHCS) là nguồn lực quan trọng, có ý nghĩa quyết định. Những năm qua, các cấp chính quyền và ngành VHTTDL đã chú trọng thực hiện nhiều giải pháp nhằm phát huy hiệu quả nguồn lực này trong việc quản lý và tổ chức các hoạt động văn hóa ở cơ sở, góp phần xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong bối cảnh mới.

1. Vài nét về quản lý và tổ chức các hoạt động VHCS hiện nay

Với mục tiêu phát triển văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội, Nghị quyết Đại hội X của Đảng tiếp tục xác định: Phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế – xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, xây dựng và hoàn thiện nên giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt coi trọng văn hóa lãnh đạo và quản lý, văn hóa trong kinh doanh… chống các hiện tượng phản văn hóa, phi văn hóa (1).

Từ chủ trương đó, công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở thời gian qua đã được các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và quần chúng nhân dân quan tâm xây dựng rộng khắp trên mọi miền đất nước. Nhà nước đã xây dựng hàng loạt các dự án lớn, đầu tư tập trung vào những khu vực gặp khó khăn như vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng biên giới hải đảo. Việc đầu tư xây dựng và phát huy hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa được chú ý. Các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thông tin đại chúng, tuyên truyền cổ động của trung ương, địa phương hướng về cơ sở và hoạt động văn nghệ quần chúng đã đạt nhiều kết quả tốt. Hệ thống các thiết chế văn hóa ở cơ sở như nhà văn hóa, sân thể thao, câu lạc bộ, trung tâm văn hóa, nhà giáo dục cộng đồng… đã được xây dựng rộng khắp làm cơ sở cho việc nâng cao chất lượng phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Nhân dân được đọc sách báo, nghe đài, xem vô tuyến, xem biểu diễn nghệ thuật, xóa các điểm trắng về hoạt động văn hóa thông tin. Các phong trào Xây dựng nếp sống văn minh, Gia đình văn hóa, Làng văn hóa, Ấp văn hóa… đã tạo nên sự chuyển biến trong ý thức của cộng đồng dân cư về vai trò của văn hóa, cuốn hút sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân.

Chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa thông tin ở cơ sở đã huy động được hàng ngàn tỷ đồng từ quần chúng nhân dân vào xây dựng cơ sở hạ tầng, thiết chế văn hóa, tạo nên sự thay đổi nhanh chóng về đời sống văn hóa của cộng đồng dân cư.

Đời sống văn hóa ở cơ sở được nâng lên, tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống, góp phần phát huy dân chủ ở cơ sở, ổn định chính trị, giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội.

Thông qua việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, các yếu tố văn hóa và nhân tố con người đã được phát huy, tạo động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, góp phần xóa đói giảm nghèo, giải quyết các chính sách xã hội. Quá trình triển khai thực hiện chủ trương xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở đã góp phần không nhỏ trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển văn hóa, làm văn hóa thấm sâu vào mọi hoạt động xã hội, từng bước xây dựng nếp sống văn minh và môi trường văn hóa lành mạnh; góp phần giữ gìn và phát huy các giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc, nâng cao đời sống tinh thần cho các tầng lớp cư dân.

Những kết quả trên cho thấy công tác tổ chức, quản lý các hoạt động VHCS đã đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, làm cho văn hóa thấm sâu vào mỗi gia đình, cộng đồng dân cư, tạo nên sự chuyển biến sâu sắc và trở thành thước đo giá trị về chất lượng cuộc sống, sự phát triển nhân cách con người…; góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, ổn định, tạo đà cho sự gia tăng phát triển kinh tế ở mỗi địa phương.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được cũng tồn tại nhiều tiêu cực đáng lo ngại. Đó là sự xâm nhập của các luồng văn hóa phẩm độc hại, hiện tượng lai căng, sùng ngoại trong biểu diễn và thưởng thức nghệ thuật ở một bộ phận giới trẻ. Hiện tượng tiêu cực, thương mại hóa trong các hoạt động văn hóa như vi phạm Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Pháp lệnh Quảng cáo, in sao băng đĩa lậu, truyền bá văn hóa phẩm độc hại… cũng là vấn đề đáng lo ngại. Các thế lực thù địch đưa văn hóa phẩm có nội dung phản động nhằm xuyên tạc, phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ giữa các dân tộc nhất là đồng bào các dân tộc tại vùng sâu, vùng xa, vùng có hoàn cảnh khó khăn… Toàn bộ điều đó đã ảnh hưởng xấu đến môi trường sống lành mạnh của nhân dân, làm xói mòn đạo đức của con người, nếu không ngăn chặn kịp thời sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều lĩnh vực đời sống xã hội và có nguy cơ làm băng hoại bản sắc văn hóa dân tộc.

Đây là khó khăn, thách thức không thể xem nhẹ đối với công tác quản lý nhà nước về VHCS, trong đó vai trò quan trọng là đội ngũ cán bộ VHCS. Vì vậy, quan tâm đầu tư, phát huy nguồn nhân lực này sẽ là động lực quyết định cho sự phát triển đời sống VHCS hiện nay.

2. Đội ngũ cán bộ VHCS hiện nay

Cán bộ VHCS là cán bộ, công chức thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về văn hóa tại các khu phố, xã, phường, thị trấn. Yêu cầu thực tế đòi hỏi người làm công tác quản lý văn hóa tại cấp cơ sở vừa phải có khối kiến thức lớn từ pháp luật, quản lý nhà nước, văn hóa, xã hội, có nhiều kỹ năng liên quan đến tổ chức thực hiện công việc cộng đồng, vừa phải có nhiều năng khiếu văn nghệ, tâm lý… phù hợp với nhiều nhóm dân cư khác nhau tại địa phương.

Có tính chất công tác đa ngành, khối lượng công việc tương đối lớn, nhưng phần lớn các xã, phường, thị trấn trên cả nước chỉ cơ cấu, bố trí 1 cán bộ làm công tác văn hóa. Trên thực tế, phần lớn cán bộ, công chức làm công tác văn hóa ở cơ sở không đáp ứng được yêu cầu cần thiết trong việc quản lý nhà nước tại địa phương.

Về chất lượng nguồn nhân lực, qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy đội ngũ cán bộ văn hóa xã, phường, thị trấn trong cả nước có trình độ tương đối đồng đều và đang từng bước được chuẩn hóa một cách đồng bộ. Hầu hết đạt trình độ từ trung cấp trở lên, nhiều công chức tại các thành phố có trình độ đại học, trên đại học. Số cán bộ công chức văn hóa xã hội phường, thị trấn của Thái Nguyên, Đà Nẵng, Đắk Lắk, Bắc Ninh và Cần Thơ có trình độ trung cấp là 28,9%, trình độ cao đẳng là 9,9%, trình độ đại học là 54,3%, số cán bộ chưa qua đào tạo là 0,6%. Trong khi đó, tại Hà Nội và TP.HCM, số công chức đạt trình độ đại học chiếm đến 98%, không có cán bộ nào chưa qua đào tạo (2). Hầu hết cán bộ VHCS ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM được đào tạo chuyên môn về văn hóa và các ngành có liên quan đến khoa học xã hội. Còn tại các địa phương khác, 39,3% cán bộ VHCS được đào tạo ngành Văn hóa Nghệ thuật, 14,6% được đào tạo ngành Xã hội Nhân văn, 11,1% đào tạo chuyên ngành Kinh tế, 32,8% đào tạo các ngành khác (3).

Về cơ cấu đội ngũ tại các địa phương, số cán bộ, công chức văn hóa xã hội luôn luôn biến động, nghĩa là được điều động, điều chuyển công tác lên tuyến trên, hoặc phiên chế qua các lĩnh vực khác. Vì vậy, cán bộ, công chức văn xã có năng lực, am hiểu cộng đồng dân cư tại chỗ, làm việc hiệu quả ít bám trụ tại địa phương, dẫn đến nguồn nhân lực luôn biến động, trẻ hóa liên tục, khó có thể quy hoạch đào tạo, nâng cao chất lượng qua đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn. Số cán bộ, công chức văn hóa xã hội trẻ chiếm số lượng nhiều; số cán bộ, công chức là phụ nữ và người dân tộc thiểu số rất thấp…

Trên thực tế, vai trò, vị trí của cán bộ VHCS chưa được nhận thức đúng đắn. Vì vậy, việc quy hoạch, xây dựng, phát triển, bố trí nguồn lực để nâng cao chất lượng khối cán bộ này chưa được chú trọng. Trình độ, kỹ năng, thái độ làm việc của cán bộ, công chức cấp cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp.

Chính sách thu hút nhân lực chuyên nghiệp về địa phương chưa đủ mạnh, chưa thu hút, giữ chân được cán bộ, công chức giỏi, chưa có chính sách thu nhập, trọng dụng, tôn vinh, khen thưởng, đãi ngộ thỏa đáng. Đối với cán bộ, công chức làm công tác VHCS là phụ nữ, người dân tộc thiểu số… cần có chính sách quan tâm đặc biệt.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vẫn chưa thật sự được chú trọng, nếu có thì vẫn còn hình thức, chưa hiệu quả. Nguyên nhân chủ yếu do thiếu thời gian, sức ép về công việc, tài chính, cũng như sự động viên, đãi ngộ của đơn vị chưa thực sự kịp thời…

Trong vài năm gần đây, các cấp chính quyền đã nhận thức rõ việc phát triển nguồn nhân lực cán bộ VHCS là một trong những khâu đột phá để đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra của Đảng và Nhà nước về văn hóa trong thời kỳ mới. Hệ thống chính trị tại các đơn vị cấp cơ sở đã cho thấy rõ yêu cầu về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quản lý nhà nước về văn hóa, đã có nhiều chương trình, đề án phát triển chất lượng nguồn nhân lực trên cả hai phương diện số lượng và chất lượng.

3. Một số giải pháp nhằm phát huy nguồn lực cán bộ VHCS

Đội ngũ cán bộ VHCS có vai trò quan trọng trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia phong trào xây dựng đời sống văn hóa, gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa ở địa phương. Chính vì vậy, những năm qua, các cấp chính quyền và ngành VHTTDL chú trọng phát huy hiệu quả vai trò của nguồn lực cán bộ. Để phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ VHCS, chúng tôi đề xuất một số định hướng, giải pháp như sau:

Các địa phương cần thường xuyên xây dựng, triển khai kế hoạch tập huấn, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ VHCS. Lựa chọn nội dung tập huấn, bồi dưỡng linh hoạt, phù hợp với nhu cầu thực tế.

Hàng năm, các cấp chính quyền xã, phường, thị trấn cần đánh giá chất lượng, thực trạng hoạt động của cán bộ VHCS để đăng ký với Sở VHTTDL nội dung tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ VHCS. Đồng thời, cần căn cứ vào đặc thù riêng của từng địa phương để xây dựng kế hoạch và triển khai các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ VHCS. Tạo điều kiện cho cán bộ VHCS tham gia học tập nâng cao trình độ, tích cực động viên, khuyến khích các cán bộ VHCS phát huy năng lực để đẩy mạnh các hoạt động văn hóa tại địa phương… Đánh giá chất lượng đời sống văn hóa, mức độ thụ hưởng văn hóa của người dân cũng là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện năng lực, trình độ của cán bộ VHCS.

Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước thì xây dựng đội ngũ cán bộ VHCS đủ tài, đủ tầm là đòi hỏi bức thiết. Cần bám sát yêu cầu, nhiệm vụ văn hóa thời kỳ mới, có cơ chế, chính sách phù hợp. Cần có sự quan tâm thỏa đáng, sự chỉ đạo quyết liệt, sự thay đổi nhận thức của các cấp trong bố trí cán bộ văn hóa sao cho đúng chuyên môn, nghiệp vụ. Để đảm nhiệm khối lượng công việc lớn, nhiều mảng, lĩnh vực, các cơ quan chức năng cần rà soát, xem xét, bố trí cán bộ đủ về số lượng, đảm bảo về trình độ, năng lực.

Trong tuyển dụng cán bộ VHCS phải đặt trình độ chuyên môn, nghiệp vụ lên hàng đầu, xây dựng chính sách thu hút, động viên người giỏi gắn bó với cơ sở. Trong sử dụng ngân sách cho phát triển nguồn nhân lực, các địa phương cần ưu tiên kinh phí phù hợp cho phát triển nhân lực cán bộ VHCS; bồi dưỡng, nâng cao trình độ, chuyên môn nhằm đáp ứng nhiệm vụ chính trị, bắt kịp sự biến động của đời sống văn hóa.

Cấp ủy đảng và chính quyền địa phương cần thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho công tác văn hóa. Các ban, ngành, đoàn thể cũng phối hợp tích cực với cán bộ văn hóa trong mọi hoạt động.

Nhìn chung, vai trò của người cán bộ nói chung, cán bộ VHCS nói riêng trong thời kỳ mới có vai trò đặc biệt quan trọng là nhân tố quyết định cho sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, đất nước và của cả dân tộc. Sự nghiệp phát triển văn hóa muốn thành công phải tạo sự chuyển biến tích cực từ cơ sở, điều đó phụ thuộc chủ yếu ở chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ VHCS.

_______________        

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2006, tr.106.

2, 3. Trường Cán bộ quản lý VHTTDL, Báo cáo kết quả khảo sát nhu cầu bồi dưỡng của công chức văn hóa  xã hội phường, thị trấn, 2014.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 392, tháng 2-2017

Tác giả : HOÀNG THỊ BÌNH

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *