Ở Việt Nam, truyện dân gian Campuchia được biết đến rất sớm, từ năm 1968. Đó là mốc thời gian mà công trình Truyện cổ Cao Miên của Lê Hương được xuất bản (1). Đến nay, ngoài công trình trên, độc giả Việt Nam ít nhất đã được biết thêm ba đầu sách về truyện kể của đất nước chùa tháp của Nguyễn Kim Liên (2), Vũ Tuyết Loan (3) và Ngô Văn Doanh (4). Qua các công trình trên, chúng tôi đã tập hợp được 23 truyện kể và dị bản thuộc kiểu truyện con vật tinh ranh. Số lượng này cho thấy rằng: kiểu truyện con vật tinh ranh chiếm một vị trí rất lớn trong truyện kể của Campuchia. Nó có những đặc điểm riêng trong cách xây dựng nhân vật, xây dựng các mô hình kết cấu, hệ thống môtip,…
Nhân vật tinh ranh là những con vật mà trong quan niệm dân gian được xem là thông minh, tinh quái, mưu trí. Đây là nhân vật chính của kiểu truyện. Theo các nhà nghiên cứu, nhân vật tinh ranh có nguồn gốc từ nhân vật văn hóa – nhân vật trung tâm của thần thoại mang tính nguyên hợp nguyên thủy. Kốtlia cho rằng trong quá trình phát triển, nhân vật văn hóa “tách ra hai khuynh hướng chính của sự phát triển hình tượng: khuynh hướng hài kịch (nhân vật – người láu cá) và khuynh hướng anh hùng (nhân vật – người chiến thắng quái vật). Người láu cá, nhân vật thần thoại ranh mãnh trở thành trung tâm của chùm truyện cổ về loài vật” (5).
Con vật tinh ranh tiêu biểu nhất trong truyện dân gian Campuchia là con thỏ, xuất hiện trong 20/23 truyện. Theo Chevalier và Gheerbrant, thỏ là “anh hùng khai hóa, một vị thần sáng thế, hoặc một ông tổ huyền thoại… Chính thần đã dạy cho loài người các nghề thủ công, diệt các loài thủy quái… Chính vì thỏ đại diện cho điều không thể biết, không thể với tới, đồng thời lại gần gũi với loài người, cho nên nó đóng vai trò làm trung gian giữa người trần và thế giới bên kia” (6). Con vật nhỏ bé này đã dùng mưu kế để ứng phó với đối thủ. Có khi nó dùng mưu mẹo để chơi khăm đối thủ (Thỏ lừa cho hổ bị kiến đốt). Có khi nó vận dụng mưu kế để thoát khỏi tai nạn, thoát khỏi sự vây hãm của kẻ thù (Con cò thông minh, Hươu, rùa và vẹt, Lại một lần nữa thỏ bị mắc bẫy,… ). Khi khác, nó dùng mánh lới để đối thủ đưa qua sông (Thỏ lừa cá sấu), để kiếm thức ăn (Bà già và con thỏ,… ). Cũng có khi mưu kế của nhân vật này đưa ra để giúp đỡ các nhân vật khác (Con cá rô anh hùng, Thỏ cứu bốn người suýt bị hổ ăn thịt, Thỏ kết bạn với voi,…).
Một trong các mục đích được sử dụng nhiều nhất với nhân vật thỏ tinh ranh là xử kiện. Đây là nét đặc sắc của truyện dân gian Camphuchia. Khảo sát kiểu truyện này ở Campuchia, Nguyễn Tấn Đắc cho rằng: “Trí tuệ dân gian đã phịa ra, hay nói đúng hơn, đã sáng tạo ra tình huống oái ăm, lắt léo, khó gỡ, những tình huống câu đố, rồi trí tuệ dân gian lại tự mình gỡ giải những tình huống đó” (7). Chẳng hạn, dân gian đã đưa ra những tình huống như lá đơn thưa kiện mập mờ, mất con trâu, không phải là trâu đực mà cũng không phải là trâu cái, chưa chắc mất năm ngoái cũng không hẳn mất năm nay, kẻ ăn cắp không hẳn là người dưng hay là người nhà (Tiếng tăm của quan tòa thỏ). Một ví dụ khác, qua truyện, dân gian còn đưa ra một khái niệm triết học về cái bộ phận và cái toàn thể: Hai chàng trai muốn cướp vợ người khác nên phối hợp với nhau gọi tên các bộ phận khác nhau của xe bò nhưng không có từ xe bò (Quan tòa thỏ), hay chuyện hai người đặt lờ bắt cá: một đặt trên cây, một đặt dưới nước. Người đặt lờ trên cây lấy trộm cá của người kia, đặt vào lờ của mình (Thỏ Phea làm trạng sư),… rồi sau đó nhờ trí tuệ dân gian, để qua nhân vật quan tòa thỏ, “gỡ giải những tình huống đó một cách bất ngờ, dễ dàng, gây hứng thú đặc biệt cho người nghe” (8).
Bên cạnh những nét tích cực kể trên, nhiều khi con thỏ tinh ranh cũng thể hiên những hạn chế như quá tự tin dẫn đến chủ quan nên thua cuộc trong cuộc chạy đua với con ốc (Một bài học hay của con ốc già) hay lạm dụng mưu mẹo để ăn trộm (Thỏ bị mắc bẫy, Thỏ đã làm thế nào để thoát ra và cứu các chú cá, Lại một lần nữa thỏ bị mắc bẫy) hoặc tư lợi trong khi xử kiện (Thỏ xử kiện cho hai con rái cá),… Đây cũng là một trong những đặc điểm nổi trội của nhân vật tinh ranh, đó là tính hai mặt hay có thể nói nhân vật tinh ranh “không phải là nhân vật lý tưởng một cách tuyệt đối” (9).
Như vậy, con thỏ tinh ranh là con vật mưu trí, tinh quái nhưng mặt khác, nó cũng thể hiện những hạn chế như kiêu căng, tham lam hay trộm cắp. Những hạn chế này không “tiêu biểu đối với folklore, vì folklore mang tính chuẩn mực rất chặt chẽ và có khuynh hướng bộc lộ thái độ hết sức phân minh” (10). Hơn thế nữa, “chính tính chất lưỡng tính ở các nhân vật này tạo nên sự hấp dẫn hơn cho truyện cổ tích loài vật” (11).
Nhân vật đối thủ là chủ nợ, nạn nhân hay kẻ gây nên những thử thách cho các nhân vật khác. Nói cách khác, đây là đối tượng của các mưu kế. Trong truyện dân gian Campuchia, hai con vật xuất hiện nhiều hơn cả trong kiểu nhân vật này là hổ và cá sấu.
Hổ (cọp) là con vật có tần số xuất hiện nhiều, có mặt trong 9/23 truyện. Trong quan niệm của các dân tộc, hổ vừa là biểu tượng của uy quyền, đáng tôn kính, mặt khác, nó cũng được xem là con vật hung bạo, độc ác nhưng ngu ngốc và nóng tính. Con vật này “gợi lên những ý tưởng về sức mạnh và tính hung dữ… Đẹp đẽ, hung dữ, mau lẹ, nó quyến rũ và gây khiếp sợ… Con hổ tượng trưng cho ý thức trở nên u tối, do bị tràn ngập bởi làn sóng những ham muốn sơ đẳng nổi lên không kìm giữ được” (12). Trong lúc đó, cá sấu được xem “là một con vật khiêng vác vũ trụ, một thần linh của đêm và trăng, chúa tể của nước nguyên thủy, háu ăn như đêm tối nuốt chửng mặt trời mỗi buổi hoàng hôn… gắn bó với vương quốc của những người chết… là biểu tượng của bóng tối và sự chết” (13). Có lẽ, chính vì thế mà trong cờ tang của Campuchia, có biểu tượng cá sấu.
Dù đó là hổ, cá sấu hay con vật nào khác thì chúng vẫn gặp nhau ở tính cách của nhân vật đối thủ là độc ác, tham lam nhưng vô ơn, nóng nảy, khờ dại. Ngay từ đầu truyện, dân gian đã không úp mở gì về nhân vật này, hàng loạt tính từ chỉ sự độc ác, nhiều động từ mạnh chỉ sự tàn bạo được sử dụng: “Con cọp hung dữ sống trong một khu rừng” (Quan tòa thỏ); “sấu hay ăn thịt thú vật. Không ngày nào không có tin thú này mất tích, thú kia biệt dạng, có khi đến giống người cũng không thoát khỏi hàm răng của sấu” (Thỏ gạt cá sấu); “cọp có tánh đa nghi và không thành thật, luôn luôn hứa càn mà không giữ lời” (Thỏ kết bạn với voi);… Dựa vào uy thế, sức mạnh của mình, nhân vật này thường gây nên những bất công, tai họa, thậm chí đe dọa đến tính mạng cho các nhân vật khác.
Trong tương quan giữa với nhân vật đối thủ, nhân vật tinh ranh là “tuyến nhân vật yếu thế. Đó là những nhân vật không hề lợi hại chút nào, hay nói thẳng ra là kẻ yếu nhất trong tất cả” (14). V.Propp cũng đồng quan điểm khi cho rằng tương quan này “như là một hình thức thể hiện sự khôn ngoan vượt trội của kẻ yếu so với kẻ mạnh” (15). D. Paulme giải thích rõ hơn: “Trong cuộc sống hằng ngày, người dân phải chịu đựng những sự thất thường từ những kẻ bề trên, vì thế họ có niềm vui thích mãnh liệt đối với thể loại chuyện giễu cợt về những kẻ tai to mặt lớn đó” (16). Như vậy, đây là mối tương quan giữa con vật nhỏ bé, tinh ranh, ma mãnh với nhân vật to lớn nhưng ngu dốt, độc ác và nóng tính hay còn gọi là con vật hữu dũng vô mưu.
Nói tóm lại, nhân vật đối thủ là những con vật gây nên nhiều khó khăn, thử thách cho các nhân vật khác. Đây là con vật có hình dáng to lớn, có sức mạnh. Nó được xem là kẻ tham lam, độc ác nhưng ngu ngốc, nóng giận. Trong cuộc chiến với nhân vật tinh ranh, nó thường là kẻ thất bại.
Nhân vật nạn nhân là những con người, con vật phải hứng chịu những khó khăn, thử thách, tai họa mà nhân vật đối thủ gây ra. Nhân vật nạn nhân thường xuất hiện trong những truyện có ba nhân vật tham gia vào diễn tiến truyện: Nhân vật đối thủ gây tai họa cho nhân vật nạn nhân, hai nhân vật này xuất hiện tạo tình huống truyện để nhân vật tinh ranh xuất hiện. Ở đây, cần phân biệt một loại nạn nhân khác, đó là nhân vật đối thủ. Gọi nhân vật đối thủ là nạn nhân cũng có lý, bởi nội dung các truyện đều cho thấy rằng, trong phần lớn diễn tiến truyện, có thể nhân vật đối thủ tác oai tác quái, gây tai ương cho các nhân vật nhưng cuối cùng nó cũng thất bại và là nạn nhân của nhân vật tinh ranh.
Một số con vật xuất hiện trong kiểu nhân vật nạn nhân như voi (Thỏ kết bạn với voi), cá rô (Con cá rô anh hùng), dê (Thỏ và dê làm cho hổ khiếp sợ),… nhưng xuất hiện nhiều hơn cả là con người với nhiều thành phần, tên gọi khác nhau. Theo thống kê, con người xuất hiện trong 7/23 truyện. Đó là ông sãi (Quan tòa thỏ) hay những con người nói chung (Thỏ cứu bốn người suýt bị hổ ăn thịt, Thỏ Phea làm trạng sư, Thỏ cứu người và trừng phạt cá sấu),… Nhìn chung đây là những kẻ hiền lành, thật thà, nhẹ dạ thậm chí là khờ dại nên hay bị đối thủ o ép, bóc lột. Trong những cuộc tranh luận, lý lẽ của nhân vật nạn nhân là trung thực, đúng sự thật nhưng nó vẫn luôn là kẻ thua cuộc. Bởi đây không phải là cuộc chiến chính nghĩa – phi nghĩa mà là cuộc chiến kẻ mạnh – kẻ yếu. Cuộc chiến này tuân theo quy luật mạnh được, yếu thua – quy luật đấu tranh sinh tồn. Chính vì thế, khi miêu tả về nhân vật nạn nhân, dân gian thường điểm nhãn một số cảnh ngộ đáng thương như sắp bị nộp mạng (Thỏ kết bạn với voi, Con cá rô anh hùng, Thỏ và dê làm cho hổ khiếp sợ,…) hay dạng làm ơn mắc oán (Quan tòa thỏ),… Lợi dụng sức mạnh và uy danh của mình, nhân vật đối thủ o ép, bóc lột sức lao động, của cải, thậm chí đe dọa tính mạng của nhân vật nạn nhân.
Thử thách đặt ra cần phải tìm cách giải quyết. Bế tắc gặp phải cần mở lối khai thông. Diễn tiến truyện sẽ không thể tiếp tục phát triển nếu không có sự tiếp nối này. Đó cũng là logic của truyện. Chính lúc mâu thuẫn giữa hai nhân vật lên đến đỉnh điểm, truyện đã ngầm mở ngỏ một hướng giải quyết mới xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện nhân vật tinh ranh.
Trong quan niệm dân gian Campuchia, thỏ được xem là thông minh, tinh quái. Con vật này mang tính hai mặt: nó tích cực khi dùng mưu kế chống lại kẻ bề trên, giúp đỡ các con vật nhưng không đáng yêu khi lạm dụng mưu mẹo để chơi khăm đối thủ. Với ý nghĩa nguyên thủy của biểu tượng này, dân gian Campuchia đã xây dựng nên một hệ thống nhân vật đặc sắc trong truyện cổ tích, chuyện về con vật mà hàm chứa những răn dạy thấu lý đạt tình về xã hội loài người muôn thuở: con người có cả tính tốt và thói xấu, có bản năng thiện và ác nhưng hướng đến cái tốt, tính thiện là điều mỗi người luôn luôn cần phải làm.
_______________
1. Lê Hương, Truyện cổ Cao Miên, Nxb Khai trí, Sài Gòn, 1968.
2. Nguyễn Kim Liên, Truyện cổ Campuchia, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1984.
3. Vũ Tuyết Loan,… Tuyển tập văn học Campuchia, Nxb Văn học, Hà Nội, 1986.
4. Ngô Văn Doanh, Truyện cổ Đông Nam Á – Campuchia, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1995.
5. Kốtlia E. X., Truyện kể dân gian châu Phi, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1986, tr.29.
6, 12, 13. Chevalier J., Gheerbrant A., Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng, 2002, tr.898, 441, 119-121.
7, 8. Nguyễn Tấn Đắc, Vài nét tinh hoa văn học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2009, tr.392.
9. Hoàng Tiến Tựu, Văn học dân gian Việt Nam, tập hai, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1990, tr.53.
10. Nôvicôva A. M., Sáng tác thơ ca dân gian Nga, tập 1, Nxb Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội, 1983, tr.278.
11. Phạm Thu Yến, Vấn đề giới thiệu, nghiên cứu đặc điểm truyện cổ tích loài vật với việc sáng tác cho thiếu nhi hiện nay, VHNT, số 213 (năm 2002), tr.87.
14, 16. Paulme D., Typologie des contes africains du Décepteur, Cahiers D’études africaines, 1960, tr.596, 562.
15. Propp V.Ia., Truyện cổ tích Nga (tiếng Nga), Trường Đại học Tổng hợp Leningrad, Leningrad, 1984, tr.314.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 347, tháng 5-2013
Tác giả : Đặng Quốc Minh Dương
Bài viết cùng chủ đề:
Có một nền văn minh nga
Thương điếm hirado trong hệ thống thương mại đông á của công ty đông ấn anh
Phát triển văn hóa và con người ở chdcnd lào