Những chủ trương phát triển văn hóa của Đảng từ năm 1975 đến nay


Chủ trương đúng đắn, kịp thời phát triển văn hóa của Đảng từ năm 1975 đến nay là nhân tố quyết định nâng cao nhận thức, hướng dẫn hành động, động viên các tầng lớp nhân dân chủ động, tích cực xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững.

1. Chủ trương phát triển văn hóa của Đảng từ năm 1975 đến thời điểm đổi mới (1986)

Với chiến thắng vĩ đại giải phóng miền Nam vào ngày 30-4-1975, dân tộc ta đã thực hiện được mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, non sông thu về một mối. Đất nước bước vào kỷ nguyên mới thống nhất, độc lập, hòa bình, tập trung khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội, mở rộng quan hệ, hợp tác với các nước trên thế giới. Đây là thời kỳ đất nước gặp muôn vàn khó khăn. Nhà nước tập trung cải tạo một số lượng lớn ngụy quân, ngụy quyền tay sai của đế quốc Mỹ; đấu tranh, xử lý các sản phẩm văn hóa đồi trụy, phản động dưới chế độ Mỹ – Ngụy. Cải tạo tư bản công thương. Chống lại hai cuộc chiến tranh biên giới: phía Tây Nam do chính quyền Pôn Pốt ở Campuchia và phía Bắc do chính quyền Trung Quốc phát động. Một số chủ trương phát triển kinh tế theo mô hình tập trung, kế hoạch hóa rơi vào bế tắc. Mỹ tiếp tục vận động các nước đồng minh cấm vận Việt Nam. Khủng hoảng chính trị trong nội bộ các nước XHCN dẫn đến viện trợ của các nước trong phe XHCN cho Việt Nam bị cắt giảm. Một số tổ chức Việt kiều phản động, nhất là ở Mỹ, thù hận chế độ XHCN ráo riết hoạt động dưới nhiều hình thức kêu gọi lật đổ Nhà nước Việt Nam, hô hào, thâm nhập phá hoại đất nước. Những vấn đề quốc tế và trong nước ở giai đoạn này là liều thuốc thử bản lĩnh chính trị cũng như sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đây là giai đoạn kiểm nghiệm và thai nghén những ý tưởng đổi mới, bổ sung hoàn thiện lý luận phát triển đất nước dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Thời kỳ này chủ trương văn hóa của Đảng được thể hiện trong một số văn kiện của Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội IV (1976) và Đại hội V (1982). Nghị quyết Ðại hội IV vạch ra đường lối phát triển đất nước là tiến hành đồng thời “ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, Cách mạng về khoa học – kỹ thuật, Cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó Cách mạng khoa học – kỹ thuật là then chốt” (1). Báo cáo chính trị Đại hội IV tiếp tục khẳng định những quan điểm xây dựng nền văn hóa mới đã nêu ở Đại hội III của Đảng: “Nền văn hóa mới là nền văn hóa có nội dung XHCN và tính dân tộc. Đó là một nền văn hóa có tính Đảng và tính nhân dân” (2). Báo cáo chính trị Đại hội V đề ra chủ trương xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, nhằm tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển kinh tế, xã hội ở các vùng miền: “Một nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hóa là đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống hằng ngày của nhân dân. Đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, bảo đảm mỗi nhà máy, công trường, nông trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã, hợp tác xã, phường ấp, đều có đời sống văn hóa” (3).

Sau thời gian dài phục vụ cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống đế quốc Mỹ xâm lược, nhiều hội văn học, nghệ thuật chưa có điều kiện tổ chức đại hội. Thời gian này, Đảng đã chỉ đạo các hội văn học, nghệ thuật chuyên ngành ở Trung ương lần lượt tổ chức đại hội kiện toàn tổ chức, đề ra phương hướng hoạt động phát triển hội viên, thúc đẩy nghiên cứu, phê bình, sáng tác đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn học, nghệ thuật của các tầng lớp nhân dân.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, Đại hội V của Đảng về xây dựng cấp huyện trở thành địa bàn trọng điểm, “pháo đài” kinh tế – xã hội, với quan điểm tập trung cho xây dựng văn hóa ở cơ sở, thiết thực chăm lo đời sống tinh thần của nhân dân, Đảng chỉ đạo triển khai ở cấp huyện 6 mặt công tác chính: Xây dựng nếp sống; Xây dựng nhà văn hóa; Xây dựng thư viện, phòng đọc sách báo; Hoạt động thông tin cổ động; Hoạt động bảo tàng, giáo dục truyền thống; Hoạt động văn nghệ quần chúng.

Tiếp quản, quản lý một nửa đất nước nhiều năm sống dưới chế độ cai trị của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai của Mỹ, Đảng và Nhà nước với truyền thống khoan dung, nhân ái, khôn khéo nhưng vẫn xử lý kiên quyết các thế lực chống phá làm mất ổn định trật tự xã hội. Trên mặt trận tư tưởng – văn hóa, Đảng, Nhà nước chỉ đạo đấu tranh loại bỏ khỏi xã hội những sản phẩm văn hóa độc hại tuyên truyền lối sống trụy lạc, hưởng thụ, cá nhân cực đoan và phản động về chính trị; tập trung cải tạo trí thức, văn nghệ sĩ từng tham gia vào hàng ngũ tâm lý chiến chống cộng của chính quyền Sài Gòn. Đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch của số ít trí thức, văn nghệ sĩ sống dưới chế độ Sài Gòn cũ dao động, bất mãn với chế độ. Phát động phong trào văn hóa quần chúng, đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, tu bổ di tích lịch sử – văn hóa, khơi dậy cội nguồn văn hóa dân tộc. Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân, nhất là nhân dân vùng địch tạm chiếm ở miền Nam. Các đoàn nghệ thuật, đội chiếu phim, văn nghệ sĩ… ở miền Bắc trở thành lực lượng xung kích vào miền Nam công diễn, chiếu phim tuyên truyền tinh thần yêu nước, cách mạng. Chủ động sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, đội ngũ tuyên truyền miệng vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực xấu chống phá Đảng, Nhà nước trong văn học, nghệ thuật.

Trình diễn nghệ thuật tại Festival Huế – Ảnh: Nguyễn Thanh Hà

2. Chủ trương phát triển văn hóa của Đảng từ thời điểm đổi mới (1986) đến nay

Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) quyết định đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế nhằm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, giải phóng năng lực sản xuất, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại. Đảng yêu cầu: “Đổi mới tư duy trong mọi lĩnh vực hoạt động của Đảng và Nhà nước là việc cấp bách, đồng thời là việc thường xuyên, lâu dài. Tính bảo thủ, sức ỳ của những quan niệm cũ là trở ngại không nhỏ, nhất là những quan niệm ấy lại gắn chặt với những người mang nặng chủ nghĩa cá nhân và óc thủ cựu” (4). Chủ trương rất quan trọng, có tính “bước ngoặt” này đã tác động sâu sắc vào mọi đời sống xã hội và từng bước làm biến đổi thượng tầng kiến trúc, trong đó có đổi mới tư duy và đổi mới cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa. Những chủ trương mới phát triển văn hóa thời kỳ này thể hiện ở 4 nội dung:

Quan điểm chỉ đạo về xây dựng và phát triển văn hóa

Quan điểm chỉ đạo là tư tưởng cốt lõi dẫn dắt tư duy và hành động của con người trong xây dựng và phát triển văn hóa. Để cụ thể hóa chủ trươngđổi mới của Đảng nêu trong Đại hội VI với tinh thần giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo, năm 1987, Bộ Chính trị khóa VI ban hành Nghị quyết 05-NQ/TW về đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới, thể hiện rõ quan điểm “Tự do sáng tác là điều kiện sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hóa, văn nghệ, để phát triển tài năng” (5).

Đại hội VII (1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, khẳng định mô hình xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội với 6 đặc trưng, trong đó nổi bật đặc trưng: “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (6). Đây cũng là mục tiêu phấn đấu xây dựng nền văn hóa ở nước ta trong suốt thời kỳ quá độ.

Năm 1993, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII ra Nghị quyết Trung ương 4, về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt, tư duy về văn hóa của Đảng đã có bước phát triển mới, văn hóa, văn nghệ được nhận thức ở tầm cao hơn: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội… Văn học, nghệ thuật là một bộ phận trọng yếu của nền văn hóa dân tộc, thể hiện khát vọng của nhân dân về Chân – Thiện – Mỹ” (7). Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của xã hội thì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Văn hóa không chỉ bó hẹp là bộ phận của xã hội, công cụ tư tưởng của Đảng mà văn hóa là nền tảng kiến tạo nên đời sống tinh thần lành mạnh của xã hội, văn hóa còn gắn kết với sự phát triển kinh tế – xã hội.

Để huy động mọi nguồn lực xã hội cho phát triển văn hóa, Văn kiện Đại hội VIII (1996) đã đưa ra chủ trương mới: “Đổi mới cơ chế quản lý theo hướng xã hội hóa các hoạt động văn hóa – thông tin” (8).

Năm 1998, Đảng ban hành Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết ra đời trong bối cảnh Đảng ta chủ động đổi mới tư duy, thoát dần tư duy giáo điều, bao cấp, lãnh đạo toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có văn hóa. Với tư tưởng chỉ đạo làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi hoạt động xã hội, Nghị quyết đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội; Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.

Các quan điểm nêu trong Nghị quyết thực sự đổi mới tư duy về văn hóa, có giá trị chỉ đạo cao trong thực tiễn, được nhân dân đón đợi và đồng tình thực hiện.

Đại hội IX (2001), Đảng ta nhìn nhận văn hóa không những là mục tiêu, là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội mà còn có nhiệm vụ cao cả xây dựng con người. “Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội” (9); đồng thời văn kiện Đại hội đặt vấn đề: “Hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc hại” (10). Tiếp cận văn hóa qua góc nhìn của giá trị học cũng là một nét mới trong tư duy lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa.

Năm 2004, sau khi kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, Đảng ta ra Kết luận Hội nghị Trung ương 10 khóa IX tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Kết luận xác định mục tiêu: “Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước” (11). Có thể khẳng định, lần đầu tiên trong một văn bản quan trọng của Đảng đã định rõ vai trò, vị trí của văn hóa trong mối tương quan với phát triển kinh tế và xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Năm 2008, Bộ Chính trị khóa X ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới đã nhấn mạnh, bổ sung, làm sâu sắc thêm các quan điểm chỉ đạo về văn học nghệ thuật.

Một là, nhấn mạnh vị trí, vai trò của văn học, nghệ thuật: Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa. Văn học, nghệ thuật là nhu cầu thiết yếu, là sự thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người. Văn học, nghệ thuật là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam.

Đây là quan điểm mới, trước đây Đảng ta cho rằng: “Văn nghệ là một lĩnh vực rất quan trọng và rất phức tạp của văn hóa và đời sống xã hội” (12). Nay Đảng nhấn mạnh sự “đặc biệt tinh tế” của văn học, nghệ thuật đối với văn hóa.

Hai là, xác định rõ nhiệm vụ của văn học, nghệ thuật Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế: Văn học, nghệ thuật phải được phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ. Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, có tác dụng to lớn xây dựng con người; vừa có trách nhiệm định hướng, vừa đáp ứng nhu cầu văn hóa – tinh thần ngày càng cao của nhân dân. Phát triển sâu rộng văn nghệ quần chúng, đồng thời tập trung xây dựng phát triển văn học, nghệ thuật chuyên nghiệp. Trên cơ sở giữ gìn, phát triển, phát huy những giá trị của văn học, nghệ thuật dân tộc, tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài; đồng thời, kiên quyết ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn áp đặt, xâm lăng văn hóa của các thế lực thù địch.

Ba là, nêu một số vấn đề mới liên quan đến xây dựng đội ngũ văn nghệ sĩ, trong đó có việc trọng dụng nhân tài: Tài năng văn học, nghệ thuật là vốn quý của dân tộc. Chăm lo phát hiện, bồi dưỡng, quý trọng và phát huy các tài năng văn học, nghệ thuật là trách nhiệm của toàn xã hội, trước hết là của Đảng, Nhà nước và của các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp. Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do sáng tạo, tạo điều kiện thuận lợi phát huy tính độc lập, khơi dậy mọi nguồn lực sáng tạo của văn nghệ sĩ. Văn nghệ sĩ, người chiến sĩ xây dựng và phát triển nền văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cần phát huy lòng yêu nước nồng nàn, gắn bó máu thịt với nhân dân, nêu cao trách nhiệm công dân, sáng tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị phụng sự đất nước và dân tộc.

Văn nghệ sĩ với tư cách là người chiến sĩ trên lĩnh vực văn nghệ không hề làm giảm quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ. Đảng ta xác định văn hóa vì mục tiêu phát triển con người, do vậy, sự sáng tạo của văn nghệ sĩ vì sự phát triển toàn diện của con người, đấu tranh loại trừ cái xấu, cái ác, bảo vệ phẩm giá con người, chính là phẩm chất chiến sĩ của văn nghệ sĩ.

Năm 2014, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Trung ương 9, khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Nghị quyết đề ra mục tiêu chung: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến Chân – Thiện – Mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (13).

Kế thừa 5 quan điểm nêu trong Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 9 hoàn thiện, bổ sung, phát triển một số tư tưởng chỉ đạo mới cập nhật tư duy của thời đại và sắp xếp lại cho phù hợp hơn với giai đoạn hiện nay và sắp tới, nhất là vấn đề con người: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo; Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế; Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

Báo cáo Chính trị tại Đại hội XIII (2021) của Đảng đã nêu quan điểm: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” (14). Báo cáo khẳng định: “Tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước” (15). Đó là những tư tưởng chỉ đạo rất mới xây dựng văn hóa, con người được toàn Đảng và các tầng lớp xã hội đồng tình.

Chủ trương kiện toàn tổ chức, xây dựng lực lượng hoạt động văn hóa, văn nghệ

Đảng ta chủ trương xây dựng và phát triển đội ngũ văn hóa, văn nghệ từ Trung ương đến địa phương trong một hệ thống tổ chức thống nhất, thúc đẩy hoạt động văn hóa, văn nghệ phục vụ đắc lực các nhiệm vụ cách mạng trong mỗi thời kỳ lịch sử.

Báo cáo Chính trị tại Đại hội VI của Đảng đã đặt vấn đề cấp ủy, chính quyền, đoàn thể cần thay đổi cách nhìn hẹp hòi đối với trí thức, xác định rõ vai trò của trí thức, văn nghệ sĩ: “Đối với trí thức, điều quan trọng nhất là đảm bảo quyền tự do sáng tạo, đánh giá đúng năng lực và tạo điều kiện cho năng lực được sử dụng đúng và phát triển. Phá bỏ những quan điểm hẹp hòi, không thấy những người trí thức ngày nay là những người lao động XHCN, được Đảng giáo dục và lãnh đạo, ngày càng gắn bó chặt chẽ với công nhân, nông dân” (16).

Năm 1987, Đảng ban hành Nghị quyết 05 chủ trương: “Lập các hội đồng nghệ thuật quốc gia, hội đồng nghệ thuật địa phương và hội đồng nghệ thuật cơ sở theo kiểu các hội đồng khoa học ở các ngành khoa học” (17) để tránh áp đặt chủ quan của người đứng đầu đối với các sản phẩm văn nghệ phù hợp với tính đặc thù của văn nghệ; đồng thời yêu cầu người lãnh đạo: “Trân trọng nhân cách, tài năng và sự độc đáo của văn nghệ sĩ, chu đáo, tế nhị, chân tình trong quan hệ, đối xử, có cách làm việc đối với từng cá tính sáng tạo” (18).

Nhiệm kỳ Đại hội VII, Đảng ta ban hành Nghị quyết Trung ương 4 đưa ra giải pháp nâng cao vai trò của tổ chức Đảng tại các cơ quan, đoàn thể làm công tác văn hóa, văn nghệ: “Thành lập đảng đoàn ở các hội văn nghệ và ban cán sự đảng ở các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa, văn nghệ” (19). Đây là quyết sách rất quan trọng đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng đối với mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ diễn ra trong đời sống xã hội ở nước ta.

Từ năm 1998, trong Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII, Đảng ta đã khẳng định: “Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam (bao gồm các hội sáng tạo văn học, nghệ thuật ở Trung ương) và các hội văn nghệ ở các tỉnh, thành phố là những tổ chức chính trị – xã hội nghề nghiệp do Đảng lãnh đạo có bộ máy chuyên trách gọn nhẹ, có sự tài trợ của Nhà nước về kinh phí” (20).

Nghị quyết 23-NQ/TW về văn học, nghệ thuật đề cập toàn diện, sâu sắc đến tình hình và các giải pháp xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật, trong đó có giải pháp: “Củng cố, đổi mới mọi hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật ở Trung ương và các địa phương nhằm nâng cao khả năng tập hợp, động viên phát huy tiềm năng sáng tạo và phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ của hội” (21).Từ thời điểm đổi mới đến nay, nhiệm kỳ đại hội của mỗi hội là 5 năm. Trước mỗi nhiệm kỳ đại hội, Ban Bí thư đều ban hành chỉ thị về đại hội các hội văn học nghệ thuật, chỉ đạo cụ thể công tác tổ chức đại hội.

Đảng ta thông qua các tổ chức hội văn hóa, văn học, nghệ thuật để tập hợp, động viên, cổ vũ văn nghệ sĩ trí thức bám sát hiện thực sinh động của đất nước, sáng tác, quảng bá nhiều tác phẩm có giá trị phục vụ các tầng lớp nhân dân. Đồng thời qua các tổ chức này, Đảng mở các lớp bồi dưỡng chính trị và chuyên môn nghiệp vụ, định hướng hoạt động nghề nghiệp; kịp thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng của trí thức, văn nghệ sĩ đề ra các chính sách khuyến khích năng lực sáng tạo, phối hợp đấu tranh chống các quan điểm sai trái nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng đặt ra trong mỗi thời kỳ lịch sử.

Năm 2017, Đảng ta ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (Nghị quyết số 19-NQ/TW) về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, với mục tiêu: “Đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập, bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; giữ vai trò chủ đạo, then chốt trong thị trường dịch vụ sự nghiệp công; cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu có chất lượng ngày càng cao” (22).

Chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đã tác động mạnh mẽ đến sắp xếp tổ chức bộ máy, giảm biên chế, chuyển sang cơ chế tự chủ về nhiệm vụ, nhân sự, tài chính nhằm giải phóng tiềm năng sáng tạo của các đơn vị trong ngành Văn hóa.

Chủ trương phát triển phong trào văn hóa, văn nghệ

Mọi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chỉ có thể đạt hiệu quả và đi nhanh vào cuộc sống khi chúng ta tổ chức được các phong trào văn hóa cụ thể thu hút rộng rãi các tầng lớp nhân dân tự giác tham gia. Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII về văn hóa nêu ra giải pháp có tính đột phá là: “Phát động Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, huy động mọi lực lượng nhân dân và cả hệ thống chính trị từ trên xuống, từ trong Đảng, cơ quan Nhà nước, các đoàn thể ngoài xã hội tích cực tham gia phong trào” (23).

Thực tiễn đã chứng minh nhờ có tổ chức thống nhất từ Trung ương xuống địa phương, nhờ cơ chế phối hợp chỉ đạo, điều hành thường xuyên, kịp thời, cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa là một chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước đã trở thành một phong trào văn hóa rộng lớn có tính toàn dân, toàn diện, được nhân dân đồng tình hưởng ứng, có ý nghĩa xã hội sâu sắc và lâu dài ở nước ta, góp phần kiến tạo môi trường văn hóa lành mạnh, bảo vệ và phát huy di sản văn hóa dân tộc, cổ vũ các tầng lớp nhân dân sáng tạo những giá trị văn hóa, văn nghệ mới.

Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII cũng nhấn mạnh việc xây dựng văn hóa trong chính trị: “Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng về văn hóa, phải xây dựng văn hóa từ trong đảng, trong bộ máy nhà nước như Bác Hồ đã dạy: Đảng ta là đạo đức, là văn minh” (24). Năm 2003, Ban Bí thư khóa IX đã ban hành Chỉ thị số 23-CT/TW về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới. Năm 2006, Bộ Chính trị khóa X ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Năm 2011, Bộ Chính trị khóa XI ban hành Chỉ thị số 03-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đại hội XII của Đảng chính thức đưa vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức” (25). Năm 2016, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Như vậy, từ năm 2003, khi có Chỉ thị số 23-CT/TW về tư tưởng Hồ Chí Minh đến nay, dưới sự chỉ đạo của Đảng, nước ta đã mở cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Mục tiêu đặt ra là làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thấm sâu vào mọi cán bộ, đảng viên, nhân dân, thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, Đảng có chủ trương cổ vũ, động viên các trí thức, văn nghệ sĩ lao động sáng tạo, hưởng ứng cuộc vận động nghiên cứu, sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật về đề tài Hồ Chí Minh; đề tài cách mạng; kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và đề tài về công cuộc đổi mới đất nước.

Nghị quyết số 23 nêu giải pháp: “Tăng cường các biện pháp xây dựng, phát triển văn nghệ quần chúng, hướng dẫn, khuyến khích quần chúng tham gia sáng tạo, bảo tồn, truyền dạy và phát huy các giá trị văn hóa, văn nghệ truyền thống của dân tộc” (26).

Đấu tranh phản bác, ngăn chặn quan điểm sai trái, thù địch trong văn hóa, văn nghệ

Sau năm 1986, trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch chế độ XHCN, năm 2002, Ban Bí thư đã thành lập Ban chỉ đạo 94 để theo dõi, nắm bắt tình hình “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa. Năm 2009, thực hiện Thông báo Kết luận số 213-TB/TW của Ban Bí thư khóa X, Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương đã thành lập Ban chỉ đạo 213 trực tiếp thực hiện nhiệm vụ đấu tranh chống quan điểm sai trái trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Theo mô hình ở Trung ương, Ban Tuyên giáo các Tỉnh ủy, Thành ủy cũng thành lập Ban chỉ đạo 94 chống âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa, trong đó có lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật. Năm 2018, Bộ Chính trị khóa XII ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, có nhiệm vụ thành lập Ban chỉ đạo 35 ở các cấp trên cơ sở sáp nhập các Ban chỉ đạo chống âm mưu “diễn biến hòa bình” trong lĩnh vực tư tưởng – văn hóa trước đó. Nghị quyết nêu quan điểm: “Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân” (27).

Chủ trương và những kết quả đạt được của các tổ chức chống các quan điểm sai trai, thù địch đã góp phần tích cực vào việc cô lập, đẩy lùi hoạt động của các đối tượng đưa ra quan điểm sai trái, thù địch trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào con đường phát triển đất nước.

Tóm lại, những chủ trương lớn về phát triển văn hóa nêu trên, chứng tỏ tư duy đổi mới, tiến kịp thời đại, năng lực đúc kết thực tiễn của Đảng ở từng thời kỳ lịch sử, là kim chỉ nam dẫn lối, nguồn lực tinh thần động viên toàn Đảng, toàn dân ta phát huy mọi nguồn lực xây dựng và phát triển văn hóa, con người, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập sâu rộng quốc tế

_________________________________

1, 2. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Biên niên sử các Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 1, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2006, tr.1201, 911.

3, 12, 16. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Biên niên sử các Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2006, tr.64, 64, 336.

4, 6, 8, 9, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.134, 315, 578, 659, 737.

5, 7, 17, 18, 19. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Một số văn kiện của Đảng về công tác tư tưởng – văn hóa (Tài liệu nội bộ), tập 2 (1986-2000), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.53, 242, 57, 58, 247.

11, 20, 21, 23, 24, 26. Bộ VHTTDL, Chiến lược phát triển văn hóa, thể dục thể thao, du lịch và gia đình đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Nxb Văn hóa – Thông tin, 2012, tr.49, 26, 83-84, 32-33, 40, 84-85.

13. Ban Chỉ đạo Trung ương Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, Các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, Nxb Văn hóa – Thông tin, 2015, tr.12.

14, 15. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.110, 116.

22. Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu BCH T.Ư khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, nhandan.vn, 27-10-2017.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.202.

27. Bản tin Thông báo Nội bộ của Ban Tuyên giáo Tỉnh Ủy Quảng Ngãi, số 12, 2018.

PGS, TS NGUYỄN HỮU THỨC

Nguồn: Tạp chí VHNT số 479, tháng 11-2021

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *