QUẢN LÝ XUẤT BẢN SÁCH GIÁO KHOA TRONG BỐI CẢNH MỚI

          Cạnh tranh là cơ chế vận hành chủ yếu của nền kinh tế thị trường, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Ở phạm vi doanh nghiệp, cạnh tranh tạo sức ép hoặc kích thích các doanh nghiệp ứng dụng khoa học, công nghệ, thiết bị sản xuất và phương thức quản lý tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành và giá bán hàng hóa. Ở phạm vi xã hội, cạnh tranh tạo sự đa dạng của sản phẩm và dịch vụ; đảm bảo điều chỉnh giữa cung và cầu; tạo môi trường thuận lợi để sản xuất thích ứng với sự biến động của cầu và công nghệ sản xuất; tác động tốt đến phân phối thu nhập, tương ứng với năng suất và là động lực quan trọng để thúc đẩy đổi mới.
NhẬn thỨc được những biến đổi lớn lao trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội; ý thức sâu sắc về nhỮng lỢi ích cỦa cẠnh tranh và tác đỘng tiêu cỰc cỦa đỘc quyỀn, Đảng và Nhà nước chủ trương trao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp, thay đổi phương thỨc quẢn lý mỆnh lỆnh hành chính, can thiỆp sâu vào hoẠt đỘng cỦa doanh nghiệp, hạn chế và đi đến xóa bỏ tình trạng biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp ở nhiều lĩnh vực, trong đó có xuất bản, phát hành sách giáo khoa.
Hiện nay, bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự phát triển công nghệ thông tin, nền kinh tế tri thức và sự phát triển của nền giáo dục xã hội đòi hỏi phải thay đổi cơ chế quản lý xuất bản sách giáo khoa.
1. Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Từ cuối TK XX toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trở thành tất yếu khách quan, cuốn hút tất cả các nước từ giàu đến nghèo, từ lớn đến nhỏ. Hội nhập là một yếu tố của phát triển. Nước nào không hội nhập tốt thì không có cơ hội để phát triển và ngược lại, những nước hội nhập tốt, sâu rộng thì sẽ phát triển tốt. Sự chuyển biến to lớn này là thành quả của sự ra đời các công nghệ cao, sự hình thành và phát triển của nền kinh tế tri thức, toàn cầu hóa và hội nhập về kinh tế, văn hóa. Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế vừa là quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh của các nước để bảo vệ lợi ích quốc gia và song hành với nó là quá trình hội nhập văn hóa, giáo dục…
Toàn cầu hóa và hội nhập đòi hỏi giáo dục và đào tạo phải đạt chất lượng cao để có khả năng đẩy mạnh sự hợp tác mọi mặt thông qua một đội ngũ nhân lực có trình độ cao. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng đòi hỏi mới trở thành quốc sách hàng đầu và cũng là mục tiêu tối cao của nền giáo dục ở nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam. Do đó, chiến lược phát triển giáo dục được coi là một điểm nhấn trong chiến lược phát triển của nhiều quốc gia. Hội nhập kinh tế quốc tế một mặt tạo điều kiện cho xuất bản sách giáo khoa trong nước mở rộng và phát triển cả về quy mô và tính chuyên nghiệp; mặt khác, cũng đem đến những thách thức không nhỏ trong cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. Khi đòi hỏi của người sử dụng ngày càng cao và phức tạp mà hoạt động xuất bản trong nước còn nhiều bất cập và cơ chế quản lý thiếu hiệu lực thì sức ép của hàng hóa và dịch vụ nước ngoài là điều không tránh khỏi. Chính vì vậy, đây là một trong những cơ sở đòi hỏi phải tìm kiếm một cơ chế quản lý để đảm bảo cho xuất bản sách giáo khoa phát triển đúng quy luật và phục vụ tốt nhu cầu của người sử dụng.
2. Bối cảnh xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
Việt Nam lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hướng đi phù hợp với xu thế phát triển khách quan của thời đại, vừa là sự tiếp thu các giá trị truyền thống của đất nước và những yếu tố tích cực trong giai đoạn phát triển đã qua. Đây là con đường thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách tụt hậu và nhanh chóng hội nhập quốc tế.
Kinh tế thị trường tạo điều kiện cho sự phát triển giáo dục và đào tạo Thực tế ở Việt Nam, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời gian qua đã chứng minh kinh tế thị trường là một bước đi tất yếu để đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Song chấp nhận một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đồng nghĩa với việc chấp nhận sự đa dạng trong các thành phần kinh tế, cùng tồn tại, cùng hợp tác và tự do cạnh tranh thị trường, chấp nhận sự tác động của các quy luật cung cầu, giá cả, cạnh tranh, thị trường hóa ngay cả trong hoạt động giáo dục. Lúc này quan hệ cung cầu trong nền kinh tế sẽ điều tiết cả quá trình giáo dục, đào tạo. Nhà trường không chỉ đào tạo theo những gì họ có sẵn mà phải điều chỉnh theo những gì mà xã hội cần để đáp ứng nhu cầu sử dụng. Từ đó, việc học và việc làm thực sự gắn bó với nhau. Do đó, công cụ của giáo dục đào tạo là các sách giáo khoa cũng như hoạt động quản lý xuất bản sách giáo khoa cần có sự nhận thức lại,đầu tư, đổi mới để thích ứng.
3. Sự phát triển của công nghệ thông tin và nền kinh tế tri thức
Hiện nay nhân loại đang sống trong thời đại bùng nổ thông tin. Sự phát triển của khoa học công nghệ tạo ra phương tiện mới giúp cho quá trình giáo dục hiệu quả hơn. Quốc gia nào biết tận dụng những cơ hội do tiến bộ khoa học công nghệ đem lại có thể đẩy nhanh sự phát triển giáo dục. Một mặt, giáo dục và đào tạo cung cấp nguồn nhân lực và nhân tài cho sự phát triển khoa học công nghệ. Mặt khác, sự phát triển của khoa học công nghệ tác động vào toàn bộ cơ cấu hệ thống giáo dục cũng như vào từng yếu tố của quá trình giáo dục đào tạo. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, quá trình đổi mới giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn cầu. Sự đổi mới ấy thể hiện đậm nét ở cơ cấu hệ thống giáo dục, bao gồm: cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo, hình thức giáo dục đào tạo, cơ cấu mạng lưới trường, cơ cấu quản lý thể chế giáo dục, đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục, phát triển nhanh chóng các phương tiện dạy học hiện đại.
Trên thực tế, các công nghệ cao đều chứa hàm lượng trí tuệ cao. Vì vậy, giáo dục đào tạo được coi là một trong những nhân tố quyết định trong cạnh tranh. Sự phát triển của khoa học công nghệ đòi hỏi phải cải tiến thường xuyên nội dung giáo dục theo hướng cơ bản và hiện đại. Nội dung phải được loại bỏ những kiến thức đã lỗi thời, giữ lại cái cơ bản nhất, bổ sung cái hiện đại bằng cách cấu trúc lại và tích hợp nội dung đào tạo, đơn giản hóa nội dung khoa học cho phù hợp với đối tượng học, lựa chọn nội dung cơ bản, điển hình… Sự phát triển của khoa học công nghệ còn giúp người học ngày càng nhiều phương tiện hiện đại để tìm kiếm và lưu giữ bên ngoài trí nhớ những nội dung thuộc loại sự vật, sự kiện, số liệu, tư liệu… để cho nội dung đào tạo tập trung vào những kiến thức cần lưu giữ bên trong trí nhớ như những quy luật, định luật, nguyên tắc, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp nghiên cứu tìm ra cái mới. Lúc này, phương pháp học cũng như phương pháp làm là nội dung quan trọng cần được truyền đạt trong quá trình giáo dục đào tạo. Để truyền đạt có hiệu quả cao một khối lượng kiến thức lớn do sự phát triển của khoa học công nghệ đem lại, phương pháp dạy học cần được đổi mới, đa dạng hóa, chọn lựa hợp lý, phù hợp với mục đích, nội dung, thời gian, trình độ người học… đặc biệt sử dụng những phương tiện dạy học hiện đại như phim, máy chiếu, băng hình, đầu video, đĩa CD, thiết bị đa pbương tiện… Người dạy từ chỗ truyền đạt tri thức chuyển sang cung cấp cho người học phương pháp thu nhận thông tin một cách có hệ thống, có tư duy phân tích và tổng hợp. Từ đó, công cụ của việc dạy và học là sách giáo khoa cũng cần phải có sự đổi mới theo hướng tích hợp nội dung và hiện đại về mặt hình thức.
4. Sự phát triển của giáo dục
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế tri thức hiện nay, người ta đặt vấn đề tri thức phải trở thành kỹ năng, trở thành trí lực và trở thành nhân lực. Do đó, để xây dựng nền giáo dục đi vào phục vụ kinh tế tri thức đòi hỏi phải có một cách tiếp cận mới về giáo dục đào tạo nói chung và học liệu nói riêng. Giáo dục hiện nay phải gắn với nhu cầu của xã hội, phải đa dạng hóa, chuẩn hóa, hiện đại hóa và xã hội hóa. Bên cạnh đó là việc xây dựng một xã hội học tập, là nơi mọi người dân đều có trách nhiệm, nghĩa vụ tham gia xã hội hóa sự nghiệp giáo dục. Cốt lõi của xã hội học tập là việc học nói riêng và giáo dục nói chung được quan niệm đầy đủ hơn, gắn bó với xã hội ngày một chặt chẽ hơn. Do đó, có tổ chức, có nội dung, phương pháp phù hợp hơn nhiều so với hiện nay. Xã hội học tập tổ chức việc học không chỉ theo hệ thống nhà trường mà còn được thực hiện rộng rãi theo hệ thống ngoài nhà trường với đối tượng đa dạng. Có thể nói, chính trong xã hội học tập, cách học, nội dung học, động cơ học, quan niệm mới về việc học và nguồn lực sẽ thay đổi rất nhiều. Chính vì thế cần có sự đổi mới, hoàn thiện về quản lý xuất bản sách giáo khoa – một trong những công cụ quan trọng của việc học.
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra rất mạnh mẽ, thách thức của sự cạnh tranh trong nội bộ quốc gia và cạnh tranh toàn cầu ngày càng trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết. Xuất bản nói chung và xuất bản sách giáo khoa nói riêng không thể nằm ngoài quy luật vận động của nền kinh tế, đi trái với những xu thế và thông lệ quốc tế, càng không thể trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước để tồn tại.
Để xóa bỏ tình trạng độc quyền, chúng ta phải thừa nhận:
Xuất bản sách giáo khoa là một ngành kinh tế – công nghệ. Mọi vấn đề trong xuất bản sách giáo khoa phải được giải quyết từ góc độ kinh tế, tuân theo sự vận động của các quy luật khách quan như cung – cầu, giá cả, cạnh tranh…
Trong hoạt động xuất bản, phát hành sách giáo khoa, Nhà nước phải định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường, phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà nước tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi để phát huy các nguồn lực cho phát triển hoạt động xuất bản theo cơ chế thị trường, tạo điều kiện để các chủ thể tham gia xuất bản, phát hành sách giáo khoa được hoạt động bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh… Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật, tác động đến thị trường sách giáo khoa chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế, sử dụng một số biện pháp để hỗ trợ thị trường khi cần thiết nhưng không trái với các cam kết hội nhập. Nhà nước quan tâm bồi dưỡng đào tạo và biểu dương các doanh nghiệp xuất bản, phát hành sách giáo khoa hoạt động có hiệu quả.
Không ngừng học tập và vận dụng kinh nghiệm của các nước khác trong quản lý xuất bản sách giáo khoa. Đa dạng hóa các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia xuất bản sách giáo khoa, huy động sức mạnh của các thành phần kinh tế làm cho hoạt động xuất bản sách giáo khoa thực sự lớn mạnh, đảm bảo nguyên tắc đề ra cho hoạt động xuất bản sách giáo khoa là chuẩn hóa, xã hội hóa và hiện đại hóa.
Nâng cao hiệu lực quản lý theo chuẩn. Trong xã hội hiện đại, việc sử dụng chuẩn trong quản lý là một tất yếu khách quan. Chỉ có quản lý dựa vào chuẩn mới có thể tránh được lối quản lý hành chính sự vụ, kém hiệu quả. Vì thế, để nâng cao hiệu lực quản lý xuất bản sách giáo khoa, nhất thiết phải xây dựng chuẩn. Chuẩn sẽ là cơ sở để đánh giá, để hướng dẫn và để quản lý. Nhà nước cần ban hành các văn bản chỉ rõ: Chuẩn kiến thức do bộ Giáo dục đào tạo ban hành. Chuẩn kiến thức là cơ sở để tổ chức các chương trình khác nhau. Từ các chương trình khác nhau sẽ hình thành các bộ sách giáo khoa khác nhau và các bộ sách giáo khoa khác nhau do các đơn vị khác nhau tiến hành xuất bản, phát hành. Chuẩn kiến thức là cái thống nhất, duy nhất, còn chương trình, sách giáo khoa và các đơn vị tạo ra sách là cái đa dạng, phong phú.
Hoạt động xuất bản hiện nay cần có những đổi mới quản lý như sau:
Bên cạnh hoạt động theo yêu cầu của Bộ chủ quản, theo đúng chức năng, tôn chỉ, mục đích khi thành lập, Nhà nước cho phép các nhà xuất bản đăng ký lĩnh vực hoạt động theo nhu cầu, khả năng của mình. Trên cơ sở đó Nhà nước tổ chức quản lý. Với cách làm này, sẽ có nhiều đối tượng, nhiều thành phần tham gia vào xuất bản sách giáo khoa. Việc hạn chế, trói buộc chức năng, nhiệm vụ của các nhà xuất bản như trước đây cũng như những cơ chế chính sách tạo “điều kiện cho một bộ, một nhà” đã gây ra tình trạng độc quyền Nhà nước trở thành độc quyền doanh nghiệp.
Nâng cao mức độ xử phạt vi phạm trong các văn bản luật.
Xác định rõ trách nhiệm pháp lý của cơ quan chủ quản nhà xuất bản – Bộ GDĐT và cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản – Cục xuất bản, tránh chồng chéo, kém hiệu quả trong quản lý.
Vấn đề giá cả sách giáo khoa: Giá sách giáo khoa sẽ hình thành dưới sự tác động của các quy luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh… Điều này sẽ thúc đẩy các nhà làm sách tự đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động, hạ giá thành…, linh hoạt trong cạnh tranh để đem lại lợi nhuận chính đáng cho mình. Từ đó, người sử dụng sách giáo khoa cũng có điều kiện lựa chọn những cuốn sách có chất lượng với giá cả hợp lý.
Nhà nước yêu cầu các doanh nghiệp áp dụng mã ISBN để đảm bảo chất lượng sách
Nhà nước cần cụ thể hóa các quy định về xuất bản trên mạng máy tính và các dạng khác như băng, đĩa… vì hình thức này sẽ trở thành phổ biến trong xuất bản và sử dụng phục vụ học tập bởi sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật công nghệ.
Nhà nước cần đưa vào luật để quy định rõ thời gian, quy mô thí điểm sách giáo khoa.
Xây dựng chuẩn xuất bản sách giáo khoa bao gồm: chuẩn về thành phần tham gia xuất bản; chuẩn về sách giáo khoa; chuẩn quy trình làm sách giáo khoa.
Nâng cao năng lực quản lý xuất bản sách giáo khoa. Đẩy mạnh cải cách hành chính để bộ máy quản lý nhà nước vừa gọn nhẹ, vừa hoạt động hiệu quả. Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công chức theo hướng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, kiến thức gắn liền với thực tế sôi động. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý.
          Xuất bản sách giáo khoa là một hoạt động cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển xã hội. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường với sự vận hành của các quy luật kinh tế như cung – cầu, giá cả, cạnh tranh…, ngành xuất bản học liệu cho giáo dục trong lĩnh vực thông tin truyền thông cũng giống như các ngành khác đều phải theo quan điểm thị trường. Bên cạnh đó là những đòi hỏi của giáo dục trong điều kiện hội nhập (WTO – góc chuẩn), khoa học kỹ thuật phát triển (công nghệ số) và thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi quản lý xuất bản sách giáo khoa phải đảm bảo các tiêu chí để tạo ra những sản phẩm đảm bảo các đặc điểm của sách như tính sư phạm, tính vừa sức, tính ổn định tương đối,… và các chức năng của sách liên quan đến giáo viên và học sinh cũng như phát huy được vai trò của sách giáo khoa trong đời sống thực tiễn.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 298, tháng 4-2009

Tác giả : Lê Thị Phương Nga

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *