Chiến tranh đi qua, lòng người bình tâm trở lại, người ta thừa nhận mất mát trong chiến tranh là điều không thể tránh khỏi. Mở rộng phạm vi hiện thực và quan tâm đến số phận con người chính là những nỗ lực đầu tiên của văn xuôi hậu chiến (1975-1985). Chiến tranh đã được mô tả, khắc họa trong những hoàn cảnh ác liệt, với những sự thật trần trụi, với diễn biến tâm lý phức tạp của cán bộ, chiến sĩ, với những số phận bi thảm, những vết thương sâu thẳm trong trái tim con người. Cảm hứng nhân đạo thể hiện ở sự đồng cảm, sẻ chia với những số phận bi kịch trong chiến tranh và suy tư sâu sắc về những hậu quả của chiến tranh.
1. Những số phận bi kịch trong chiến tranh
Trong văn xuôi 1945-1975, cảm hứng nhân đạo gắn liền với cảm hứng anh hùng, thiên về ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của con người trong chiến tranh, hướng tới khát vọng, lý tưởng cao cả của dân tộc. Có sự đồng cảm, xót xa với những số phận trong chiến tranh nhưng đó không phải là gam màu chủ đạo, bởi số phận cá nhân nằm trong số phận dân tộc, nỗi đau cá nhân hòa trong nỗi đau cộng đồng… Văn xuôi thời hậu chiến đã hướng mối quan tâm đến những số phận cá nhân trong và sau chiến tranh, đến cuộc đời riêng của con người trong nhịp sống sôi động của cả dân tộc. Những lát cắt đầu tiên ấy là khởi đầu cho một dòng văn học viết về con người, lấy con người làm điểm quy chiếu lịch sử.
Văn xuôi ba mươi năm chiến tranh không phải không có những éo le, bất hạnh, những nạn nhân của chiến tranh. Song những bi kịch riêng ấy hòa chung với nỗi đau của dân tộc. Trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, hai chị em Việt và Chiến mang trong mình thù nhà, nợ nước. Cái chết của ba má họ không mang nặng màu sắc của bi kịch cá nhân mà nhấn mạnh nỗi đau chung của dân tộc, làm tăng thêm trong họ lòng căm thù giặc, lòng quyết tâm chiến đấu để xứng đáng với truyền thống gia đình. Họ không chỉ là những người con trong một gia đình nhỏ ở Nam Bộ mà còn là những người con ưu tú trong gia đình lớn của dân tộc Việt Nam. Cái riêng hòa quyện với cái chung giống như “trăm con sông đổ về một biển” (Nguyễn Thi). Đó cũng là xu hướng chung của các sáng tác khác trong thời kỳ này.
Văn xuôi hậu chiến nhìn sâu vào nỗi đau con người trong cuộc chiến, để thấy những vênh lệch giữa cá nhân và cộng đồng, những bi kịch cá nhân đau đớn, day dứt. Những bi kịch đời riêng ấy được hé mở từ vài tác phẩm trước 1975 như Dấu chân người lính – Nguyễn Minh Châu (mối tình éo le giữa Lượng – một chiến sĩ cách mạng và Xiêm – vợ một ngụy quân Sài Gòn, cuộc đời đau khổ của cụ Phang: đứa con trai duy nhất của cụ lại chiến đấu trong hàng ngũ kẻ thù…) nhưng phải đến loạt tiểu thuyết sau giải phóng, vấn đề số phận con người mới được đặt ra trực tiếp và sâu sắc.
Năm 1975, họ đã sống như thế của Nguyễn Trí Huân ghi lại chặng đường trước cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 1975. Ở đó, có tâm lý hoang mang, chán chường, lo sợ của lính ngụy, “những con tốt xấu số trong tàn cục một cuộc cờ” (Lại Nguyên Ân), có không khí ác liệt của những trận đánh cuối cùng, có tình bạn (Nhã – Mạc), tình yêu (Thức – Thư, Thiết – Phước, Phác – Hòa), có những chiến công anh dũng và những mất mát, hy sinh (thất bại của tiểu đoàn khi mất chốt 174, cái chết của Nhã, Mạc…) và đặc biệt, có những bi kịch trong đời riêng của nhân vật, được miêu tả day dứt, ám ảnh, chứ không bị mờ nhạt đi trước số phận cộng đồng như trong văn học trước 1975. Đó là nỗi mất mát lớn lao của Thư, mất ông, bà, mẹ và hai đứa cháu trong một trận càn, “cho đến bây giờ, Thư vẫn không hiểu vì sao lúc ấy cô không thể khóc được. Mắt cô cứ khô bỏng như sắp sửa bốc cháy… Thư còn nhớ rõ lúc ấy, sau lưng cô, mặt trăng mọc lên đỏ tía như một bát máu và khi mặt trăng lặn đi, mặt trời mọc lên cũng đỏ bầm, gay gắt như thế”(1). Đó là “nỗi đau nhoi nhói trong ngực Phác”(2) mỗi lần nghĩ đến đứa em trai đang đối đầu với mình ở bên kia chiến tuyến. Anh day dứt không thể hiểu được vì sao em trai mình lại trở thành một kẻ cuồng tín, “chống trả ba mình, anh mình điên cuồng như những kẻ thù truyền kiếp” (3); đau đớn, căm giận… để rồi sau mỗi trận đánh, Phác lại lặng lẽ đi nhận mặt từng xác lính ngụy với tâm trạng “vừa lo sợ vừa thất vọng” (4). Đó là niềm tin bị đổ vỡ trong Mạc – chính trị viên tiểu đoàn bộ binh – khi biết vợ mình “vẫn ngang nhiên đi lại với một người đàn ông khác, bất chấp dư luận, bất chấp sự lên án của cơ quan, bè bạn” (5). “Mạc ngồi gần như chết lặng trên võng. Anh thấy mình trở nên đơn độc và trơ trọi. Bao nhiêu niềm tin, bao nhiêu hy vọng lóng lánh như bọt xà phòng phút chốc tan biến đi trên mặt nước…” (6). Bằng trái tim mẫn cảm, nhà văn đã nhận thấy những day dứt, trăn trở trong tâm hồn nhân vật. Dù những bi kịch đời riêng ấy chỉ là nền để tô đậm ý chí của nhân vật nhưng đã phần nào thể hiện cái nhìn khác về hiện thực chiến tranh, về con người. Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Minh Châu, Chu Lai, Bảo Ninh… đã tiếp tục đi theo hướng khai thác ấy để tô đậm một sự thật khác: chiến tranh là tội ác. Chiến tranh kết thúc nhưng “sau cuộc chiến tranh kéo dài mấy mươi năm, chiến thắng và hòa bình chấm hết tiếng súng xung đột nhưng những vết thương mất mát vẫn tiếp tục đau quặn từng cơn hoặc âm ỉ suốt đời nhiều số phận cá nhân và gia đình cả hai bên thù địch” (7).
Những bi kịch cá nhân ấy được diễn tả xúc động trong Miền cháy, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành… với nỗi đau của người mẹ mất con đang cưu mang con trai của kẻ thù, những khắc khoải đi tìm tình yêu, nỗi cô đơn của người đàn bà mộng du… Bi kịch của bà mẹ Êm là những diễn biến phức tạp, khổ sở, những giằng xé trong cuộc giáp mặt éo le, đau đớn với bé Sinh khi bà đã phát hiện Sinh chính là con của kẻ sát nhân đã giết con trai mình trong buổi hoàng hôn cuối cùng của chiến tranh. Bi kịch của Quỳ là sự lý tưởng hóa tình yêu và chính mình để rồi sống trong bao éo le, dằn vặt… Nhà văn dường như nhạy cảm hơn, xót xa hơn trước nỗi đau giới tính thầm lặng của người phụ nữ – những nạn nhân tội nghiệp của chiến tranh. Thay thế cho âm hưởng sử thi – anh hùng ca là âm hưởng khác dữ dội, khốc liệt hơn, đó là nỗi day dứt, đau đớn khôn nguôi trước những mất mát, khắc nghiệt của chiến tranh in hằn lên số phận nhỏ bé của con người.
Đọc văn xuôi hậu chiến, người đọc ít nhiều bị ám ảnh bởi nhiều số phận cá nhân như thế. Mỗi người một hoàn cảnh nhưng họ đều cố gắng nén nỗi đau riêng, cố gắng vượt qua để đến được lý tưởng chung. Nhưng hành trình tâm lý của họ từ nỗi đau cá nhân đến sự hy sinh cái riêng vì cái chung được diễn tả tự nhiên, chân thật hơn so với cái nhìn lý tưởng hóa nhân vật trong văn xuôi cách mạng. Tiểu đoàn trưởng Sáu Hóa (Nắng đồng bằng) – một tính cách Nam Bộ sắc nét – con người thẳng thắn, bộc trực, tếu táo, tưởng chỉ biết “sinh ra để cầm súng chứ không phải con người của tình cảm, tình thương” (8) đã biết nén đau thương cực độ khi nhìn thấy cảnh vợ mình đang sống cùng tên đại úy ngụy trong một đêm đi trinh sát. “Sáu Hóa thở khó nhọc như người ngủ bị bóng đè. Anh bậm môi, con mắt nhỏ phản chiếu tia sáng đèn lóe lên như đốt cháy người thiếu phụ. Bàn tay vẫn lẩy bẩy trên thanh cửa chắc nịch. Cái đầu anh chúi nhao về phía trước, miệng há ra như sắp phá tung tất cả, sắp hét lên dữ dội” (9). Anh đã nghiến răng ra đi để giữ bí mật tuyệt đối cho trận đánh sắp tới. Vì nhiệm vụ chung, người chiến sĩ đặc công ấy đã hy sinh hạnh phúc riêng của mình, thậm chí chấp nhận làm người chết khi đang còn sống. Kẻ địch đã tung tin anh chết để mua chuộc vợ anh, ba má anh đêm đêm vẫn cúng vái anh, còn anh không thể công khai việc mình còn sống, bởi người thân của anh sẽ bị đưa ra làm con tin, sẽ bị chúng bắt bớ, đánh đập, thậm chí sát hại. Sáu Hóa đã hy sinh anh dũng trong trận đánh chi khu trung tâm, mang theo nỗi đau đớn khôn nguôi của riêng mình.
Chiến tranh là vậy, bao nhiêu người phụ nữ chờ đợi trong vô vọng, bao nhiêu cặp vợ chồng chỉ được sống với nhau những ngày ngắn ngủi, bao nhiêu cặp tình nhân không kịp trở về thực hiện lời ước hẹn và bao nhiêu hạnh phúc dang dở, éo le như Sáu Hóa, Lực và Thai (Cỏ lau – Nguyễn Minh Châu), Kiên và Phương (Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh), Thảo và Thành (Người sót lại của rừng cười – Võ Thị Hảo)…
Trong cơn gió lốc của Khuất Quang Thụy là những trang viết hào hùng, xúc động về cuộc chiến của trung đoàn 6 với liên đoàn 2 ngụy. Ở đó, nhà văn đồng cảm, chia sẻ với những nỗi đau của nhân vật, dù họ là ai, thuộc giai cấp nào, mỗi người đều có những bi kịch riêng. Đó là một em bé mất mẹ khi mẹ em bị xe tăng địch nghiến nát (bé gái được Hưng cứu sống), là nỗi đau đớn mất đứa con trai mà hai mươi năm cha con mới biết mặt nhau (Lê Thuần), là những trăn trở của một sĩ quan ngụy, cảm nhận được cuộc chiến vô nghĩa mà mình đang phụng sự nhưng không thể cắt nghĩa, lý giải và tự mình thoát ra được (Thuận), là những day dứt, đau đớn của một cô sinh viên khi nhận ra anh trai mình đang đứng trong hàng ngũ những kẻ phản bội mà không thể lên tiếng tố cáo, khi nhận ra nhưng không thể kiên quyết đứng về phía chân lý để đấu tranh với cái ác (Mai)…
Ở bất cứ tác phẩm nào viết về chiến tranh sau 1975 đều có thể thấy bi kịch của những con người bị ném vào guồng quay tàn bạo của chiến tranh. Viết về những bi kịch ấy với cảm hứng nhân đạo sâu sắc, nhà văn bày tỏ nỗi xót thương với những nỗi đau con người phải gánh chịu, tiếp tục tố cáo mặt phi nghĩa, vô nhân tính của chiến tranh. Đó cũng chính là nét mới trong văn xuôi 1975-1985 viết về đề tài chiến tranh.
2. Những di họa, ám ảnh của chiến tranh
Hiện thực chiến tranh trước hết được nhận thức lại từ sự tác động ghê gớm của nó đến tính cách và số phận con người, với bao nhiêu nỗi éo le, bi kịch. Bên cạnh những số phận bi thảm trong chiến tranh, nhà văn đề cập đến những khía cạnh khác liên quan đến chiến tranh – những di họa, ám ảnh của chiến tranh mà con người buộc phải nhận thức lại với cái nhìn nghiêm túc.
Chú ý tới số phận cá nhân, các nhà văn hậu chiến đã khá nhạy cảm trước mối quan hệ giữa người lính với cuộc sống thời bình phức tạp. “Bước ra khỏi một cuộc chiến tranh cũng cần thiết phải có đầy đủ trí tuệ và nghị lực như bước vào một cuộc chiến tranh” (10). Bước ra từ cơn binh lửa, những người lính đã từng xông pha trận mạc bỗng ngơ ngác giữa cuộc sống đời thường. Bỏ lại sau lưng những chiến công, họ bắt đầu hành trình nhọc nhằn, gian khổ kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc… với hành trang duy nhất là những ký ức đẹp đẽ về tuổi trẻ trong chiến tranh. Lửa từ những ngôi nhà, Mùa lá rụng trong vườn, Thời xa vắng… là những tác phẩm như vậy. Dấu vết của chiến tranh được thể hiện qua cuộc sinh tồn vất vả của những người lính đã từng tỏa sáng vẻ đẹp rực rỡ của chiến công, của chủ nghĩa anh hùng nhưng lại xa lạ với cuộc sống bình thường… Nghịch lý ấy tiếp tục được khám phá, biện giải trong nhiều tác phẩm văn xuôi sau đổi mới như: Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Trung tướng giữa đời thường (Cao Tiến Lê), Tiễn biệt những ngày buồn (Trung Trung Đỉnh), Mảnh vườn xưa hoang vắng (Đỗ Chu)…
Chiến tranh đã đi qua nhưng hậu quả nó để lại vẫn nặng nề trong tâm khảm con người. Đó là hoàn cảnh éo le, bi kịch của bà mẹ Êm (Miền cháy), là sự trớ trêu, dang dở của Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành), là những đứa trẻ mang trên mình chất độc của chiến tranh, là những cuộc gặp mặt của những con người ở hai bên chiến tuyến, là những hận thù chưa vơi, là những thách thức khi bắt đầu cuộc sống mới… “Sau nhiều năm đất nước bị chia cắt và đối địch, con người hai bên trở thành xa lạ với nhau quá, máu đã chảy đầm đìa và nợ máu chưa trả vẫn còn chồng chất trong lòng người. Những món nợ dằng dịt rất khó gỡ. Thương tích và hận thù sẽ còn rất lâu. Vậy thì, trong tương lai, những người cộng sản sẽ làm cách nào… để có thể gỡ cái đống rối rắm đang tàng trữ trong máu và nước mắt như thế kia, của hàng triệu người?” (11). Những day dứt, băn khoăn ấy sau này đã được Nguyễn Trí Huân viết ám ảnh, khắc khoải hơn trong tiểu thuyết Chim én bay, xuyên suốt là nỗi trăn trở “tìm lại nhà những tên ác ôn mình đã giết xem vợ con chúng hiện sống ra sao” (12) của Quy. Điều đó khiến chị không thể sống thanh thản. Cái khắc khoải khó gọi tên ấy, cùng với hình ảnh chị Năm – vợ Giám Tuân với tiếng thét chạy đi đã cứu chị, cứ day dứt, khiến chị đã nhiều lần đến nhà Giám Tuân, nhiều lần bênh vực vợ con hắn, mang gạo đến cho mấy mẹ con… Những số phận như vợ Hai Đích, chị Năm, những đứa trẻ lớn lên trong thù hận và sự khinh ghét của mọi người xung quanh… là một khía cạnh khác của chiến tranh. Làm thế nào để “khắc phục những ấn tượng và quan niệm thiếu nhân đạo đối với gia đình ngụy quân, ngụy quyền cũ”. Làm sao để “những ai làm tốt nghĩa vụ công dân, dù xuất thân từ thành phần nào, có quá khứ thế nào đều đáng được khen ngợi”. Làm sao để “trẻ em… được bình đẳng như nhau, bởi chúng không hề tham dự vào tội ác của cha mẹ chúng và đừng đẩy chúng về phía tội ác mà lẽ ra chúng nó có thể xa lánh được” (13)… Đó thực sự là những vấn đề bức thiết được đặt ra sau cuộc chiến.
Bước ra khỏi cuộc chiến, trước hiện thực phức tạp, con người cần thiết phải có một thái độ, một bản lĩnh, một cách sống. Bởi cuộc đối mặt giữa con người với cuộc sống thời hậu chiến cũng khó khăn và gian khổ vô cùng: “Xưa nay, đất dưới chân những người vừa thắng giặc có bao giờ nở sẵn đầy hoa? Mảnh đất vừa được giải phóng này như một lời thách đố, như một thứ chiến trường mới lập tức mở ra trên chính vùng chiến trường cũ…” (14). Đó là những mảnh đất đầy đạn bom, chất độc hóa học, mìn, dây thép gai, bệnh dịch…, là những cám dỗ ghê gớm của vật chất có khả năng làm tha hóa nhân cách con người. Sự sa ngã của Bàng, một cán bộ, đảng viên vốn năng nổ, tháo vát (Miền cháy) là một khẳng định: chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù chính trên mặt trận không tiếng súng. “Đó là một thứ kẻ thù có một trăm mặt. Nó phá phách lòng người, nó làm cho tình bạn và tình đồng chí bị thương tổn, nó làm cho mặt trời không còn sức nóng, con người không còn niềm tin vào nhau” (15). Sự kiên trinh, thủy chung với cách mạng của Dị, vòng tay rộng mở của cán bộ xã với Bàng là một khẳng định khác, tích cực về thái độ, bản lĩnh của con người trong cuộc giáp mặt khó khăn với cuộc sống thời hậu chiến.
Có thể nhận thấy sự thay đổi cách nhìn nhận về chiến tranh trong chính các tác giả, mà tiêu biểu là Nguyễn Minh Châu. Chiến tranh trong sáng tác trước 1975 của Nguyễn Minh Châu là sự lãng mạn, hào hùng, là “tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống – cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy, bao nhiêu bom đạn giội xuống cũng không hề đứt, không thể nào tàn phá nổi” (Mảnh trăng cuối rừng). Trong văn xuôi hậu chiến, Nguyễn Minh Châu đã nhìn thấy những di họa của chiến tranh ở bi kịch của Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành), của bà mẹ Êm, ở cuộc sống khó khăn thời hậu chiến (Miền cháy). Sau 1986, người lính trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu đã cay đắng nhận ra rằng: chiến tranh “như một nhát dao phạt ngang mà hai nửa cuộc đời tôi bị chặt lìa thật khó gắn liền lại như cũ”, bởi “tôi đã bị chặt lìa ra khỏi ngay cuộc đời mình” (Cỏ lau), bởi người lính ấy sẽ sống suốt phần đời còn lại ở vùng núi Đợi cô đơn…
Chiến tranh đi qua, có người trở về trong hạnh phúc với những chiến công và sự lành lặn, cũng có người trở về với thương tích, bệnh tật, cô đơn, chịu đựng nỗi đau khi nhìn thấy hậu quả chiến tranh hiện hữu ở con cháu mình… Và còn rất nhiều người khác vẫn nằm lại chiến trường, người có tên, người chưa có tên, người được quy tập, người còn đang gửi máu xương trong đất, trên sông, dưới biển. Đó là những nỗi đau không kể xiết của dân tộc Việt Nam sau chiến tranh – một cái giá quá lớn để đổi lấy hòa bình – độc lập – tự do. Chiến tranh đã qua gần bốn mươi năm nhưng trên khắp mọi miền đất nước vẫn còn đó những nỗi đau da cam, những hành trình đi tìm kiếm hài cốt liệt sĩ của bao nhiêu gia đình. Câu chuyện về những nỗi đau ấy nối dài từ quá khứ đến hiện tại, từ thế hệ sinh ra, lớn lên trong chiến tranh đến cả những thế hệ sinh ra trong hòa bình mà mọi nguyên cớ đều xuất phát từ hai chữ: chiến tranh.
Lễ hoa đăng trên dòng sông Thạch Hãn vào ngày 27-7 hàng năm chính là sự tưởng nhớ linh hồn hàng trăm liệt sĩ đã hy sinh, gửi thân xác mình trong lòng sông nước. Tuổi đôi mươi của họ đã dâng hiến cho Tổ quốc để mang lại hòa bình yên ấm cho dân tộc. Và trong cuộc chiến tranh ấy, còn biết bao nhiêu chiến sĩ đang nằm lại đâu đó trên khắp các miền quê, rừng núi… không một nấm mồ, không một nén nhang thơm…, dưới đáy sông sâu:
Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi đôi mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ bãi mãi nghìn năm…
(Lê Bá Dương – Lời gọi bên sông)
hay trong lòng đất lạnh:
Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi
Cho đồng đội tôi nằm yên dưới cỏ
Trời cũng tự trong xanh và lộng gió
Dẫu ồn ào đừng lay mạnh hàng cây...
(Phạm Đình Lân – Tấc đất cổ thành)
Câu thơ của những cựu chiến binh thành cổ mang chất sử thi hào hùng nhưng xót xa, đau đớn. Khơi dậy trong thẳm sâu trái tim mỗi người chúng ta hôm nay những day dứt, nhức nhối ấy, văn xuôi hậu chiến đã thực sự thể hiện cảm hứng nhân đạo sâu sắc.
Văn xuôi viết về chiến tranh giai đoạn 1975-1985 đã phản ánh hiện thực chiến tranh bằng cái nhìn đa diện. Ý thức viết về nỗi buồn đau, mất mát, về số phận con người trong và sau cuộc chiến, văn xuôi hậu chiến không phủ nhận quá khứ mà muốn đem lại cái nhìn khách quan, toàn diện về hiện thực chiến tranh. Viết về những góc khuất của nó, với những mất mát, buồn thảm, văn xuôi thời kỳ hậu chiến không nhằm mục đích làm lòng người nản chí mà hướng tới sự nhìn nhận hai chiều về lịch sử và khẳng định bản lĩnh, sức mạnh phi thường của con người trong chiến tranh. Chiến tranh là môi trường hủy diệt ghê gớm nhưng nó không thể tàn phá tâm hồn và những phẩm chất tốt đẹp của con người. Quá, Thị, An, Hùng (Đất trắng), Mạc, Nhã, Phác, Thiết (Năm 1975, họ đã sống như thế), Vũ (Biển gọi), Hưng, Thục, Mánh (Trong cơn gió lốc), Bình, Hoàn, Lê Cam (Đất miền Đông)… là những chân dung quả cảm trong chiến đấu; Quỳ, mẹ Êm là những thánh nhân có tấm lòng quảng đại, xoa dịu nỗi đau của người khác bằng nỗi đau của chính mình. Họ là những con người đầy nghị lực, can trường, đã dám đối diện với nỗi đau, vượt qua nó để trở về với cuộc sống bình thường, với khát khao hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhận thức mới về hiện thực chiến tranh, quan tâm hơn đến số phận con người, văn học những năm đầu sau chiến tranh đã đến gần hơn với độc giả. Đó chính là sự khởi đầu của đổi mới, tạo nên một diện mạo mới của văn học Việt Nam sau chiến tranh.
_______________
1, 2, 3, 4, 5, 6. Nguyễn Trí Huân, Năm 1975, họ đã sống như thế, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2002.
7. Nguyễn Mạnh Tuấn, Cù lao Tràm, tập 1, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1985.
8, 9. Chu Lai, Nắng đồng bằng, Nxb Lao động, Hà Nội, 2009.
10, 11, 14, 15. Nguyễn Minh Châu, Miền cháy, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1977.
12, 13. Nguyễn Trí Huân, Chim én bay, Nxb Văn học, Hà Nội, 2007.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 360, tháng 6-2014
Tác giả : Ngô Thu Thủy
Bài viết cùng chủ đề:
Năng lực phản biện khoa học của giảng viên trong nhà trường quân đội
Thế giới quan và phương pháp luận của giảng viên trẻ trong các trường quân đội
Sự chuyển đổi sinh kế của người dân nà lầu, lạng sơn