Sự vận động và phát triển quan điểm lý luận văn hóa của Đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam

1. Những quan điểm lý luận ban đầu của Đảng về văn hóa trước năm 1945

Ngay từ khi mới ra đời và hoạt động bí mật, Đảng ta đã chú ý tới vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa trong quá trình tuyên truyền, giác ngộ, vận động quần chúng tham gia cách mạng, đánh đổ đế quốc, thực dân, phong kiến, giải phóng dân tộc, đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Với bút danh Sóng Hồng, đồng chí Trường Chinh từng viết về sức mạnh của văn hóa văn nghệ cách mạng: “Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ/ Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”.

Năm 1943, vận dụng quan điểm mác-xít về văn hóa, Đảng ta đã soạn thảo văn kiện Đề cương văn hóa Việt Nam, trình bày những luận điểm lý luận khoa học đầu tiên về văn hóa, nhằm khai mở và nâng cao nhận thức về văn hóa cho cán bộ cách mạng và quần chúng nhân dân, từng bước thu hút đội ngũ văn nghệ sĩ, các nhà văn hóa đứng về phía cách mạng, tích cực tham gia truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cổ vũ cho sự nghiệp cách mạng nước ta đi đến thắng lợi. Ðây là văn kiện có giá trị vô cùng to lớn và mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc của Ðảng ta, được coi là tuyên ngôn của Ðảng về một nền văn hóa “dân tộc”, “khoa học”, “đại chúng” mà chúng ta sẽ xây dựng. Quan điểm lý luận văn hóa của Đảng đã được đúc kết trong Đề cương văn hóa Việt Nam: “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa), ở đó, người cộng sản phải hoạt động. Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa. Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới hiệu quả” và “phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội” (1).

Trong bối cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, khi “văn hóa nửa phong kiến, nửa tư sản và hoàn toàn có tính cách thuộc địa” đang thống trị, sự ra đời của Ðề cương văn hóa Việt Nam là ngọn đuốc soi đường và định hướng tư tưởng, nhận thức, phương châm hoạt động văn hóa cho toàn Ðảng, toàn dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do cho Tổ quốc, tiến lên xây dựng chế độ mới, nền văn hóa mới. Đảng ta vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin để khẳng định vấn đề có tính quy luật về “quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị: nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng nên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc)” (2). Và cách mạng trên lĩnh vực văn hóa không tách rời cuộc cách mạng trên lĩnh vực chính trị và kinh tế. Cách mạng chính trị phải giành thắng lợi trước rồi cách mạng kinh tế và cách mạng văn hóa mới có điều kiện thực hiện thắng lợi; đồng thời thực hiện cách mạng văn hóa thành công thì mới hoàn thành được công cuộc cải tạo triệt để xã hội. Cách mạng về văn hóa là một sự nghiệp vĩ đại, sâu sắc rất lâu dài và nhiều khó khăn, gian khổ, bởi lẽ văn hóa “là một mặt trận”, là nơi diễn ra những cuộc tranh đấu đa dạng, phức tạp về tư tưởng, học thuật cũng như nghệ thuật, từ đó tác động rất lớn đến con người và xã hội.

Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 thể hiện lập trường cách mạng của Đảng, có tác dụng cổ vũ, lôi cuốn đông đảo những người yêu nước, những người hoạt động văn hóa yêu nước vào “Hội Văn hóa cứu quốc”, thành viên của Mặt trận Việt Minh. Ba nguyên tắc, ba tính chất cơ bản của nền văn hóa Việt Nam lúc đó và các giai đoạn tiếp theo là: “Dân tộc hóa” (tức là chống mọi ảnh hưởng của nô dịch và thuộc địa, làm cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập, tự do và nhân văn); “Ðại chúng hóa” (tức là chống mọi chủ trương, hành động làm cho văn hóa phản lại lợi ích của đông đảo quần chúng hoặc xa rời đông đảo quần chúng, văn hóa là của quần chúng, quần chúng nhân dân là người sáng tạo văn hóa); “Khoa học hóa” (tức là chống lại tất cả những gì lạc hậu, mê tín, dị đoan, phản khoa học, phản tiến bộ, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn minh nhân loại, tiến về phía trước).

Đề cương văn hóa Việt Nam đã nhấn mạnh vai trò lãnh đạo đặc biệt quan trọng của Đảng trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng cuộc sống mới cho nhân dân. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử cao cả đó, Đảng phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm tư tưởng, có tư duy lý luận khoa học và thuyết phục về văn hóa, về cách mạng. Chỉ có Đảng mới hướng cuộc vận động cách mạng văn hóa Việt Nam vào con đường đúng đắn và đạt tới đích cuối cùng. Đề cương văn hóa Việt Nam cũng xác định rõ sứ mệnh lịch sử của trí thức, văn nghệ sĩ, các nhà văn hóa Việt Nam vừa phải tham gia đấu tranh giải phóng dân tộc giành độc lập, tự do cho đất nước, vừa tích cực xây dựng nền văn hóa mới của dân tộc trong thời đại cách mạng.

2. Quan điểm lý luận về văn hóa của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954)

Sau khi đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ cấp bách mà chính quyền cách mạng non trẻ phải giải quyết, trong đó nhấn mạnh: “Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: Cần, Kiệm, Liêm, Chính”. Tiếp đó, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tổ chức tháng 11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ về vai trò quan trọng của văn hóa trong tiến trình lịch sử: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Quan điểm này đã trở thành nguyên tắc chi phối, có ý nghĩa cơ bản, lâu dài, xuyên suốt quá trình phát triển văn hóa Việt Nam trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN). Để hiện thực hóa vai trò “soi đường cho quốc dân đi” của văn hóa, Hồ Chí Minh xác định cần phải cụ thể hóa qua hai vấn đề thiết yếu là xây dựng văn hóa và xây dựng con người thông qua quá trình thực hiện năm điểm lớn là: “1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập, tự cường; 2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng; 3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi nhân dân trong xã hội; 4. Xây dựng chính trị: dân quyền; 5. Xây dựng kinh tế” (3).

Năm 1948, tại Đại hội Văn hóa toàn quốc lần thứ 2, đồng chí Trường Chinh đã soạn thảo tham luận Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, thể hiện quan điểm lý luận của Đảng về phát huy sức mạnh của văn hóa dân tộc để đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đồng chí Trường Chinh nêu rõ: “Trong lịch sử loài người, nhiều dân tộc chưa có văn minh, song đã có văn hóa” (4). Văn hóa và văn minh là những khái niệm gần gũi nhưng không thể đồng nhất. Điều quan trọng là văn hóa phải hướng tới những đỉnh cao của văn minh.

Theo yêu cầu của cuộc kháng chiến, đội ngũ văn nghệ sĩ phải là những người lính xung kích trên mặt trận tư tưởng văn hóa, có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, có tài năng văn hóa văn nghệ và luôn anh dũng đấu tranh bảo vệ sự đúng đắn, chính nghĩa của cuộc kháng chiến. Đồng chí Trường Chinh tiếp tục nhấn mạnh về tính giai cấp của văn học nghệ thuật và vai trò của văn nghệ sĩ cách mạng, kịch liệt phản đối, bác bỏ quan điểm cho rằng văn học nghệ thuật đứng ngoài giai cấp, phi chính trị: “Muốn phục vụ loài người, phục vụ dân tộc, góp một phần vào lịch sử tiến hóa, những chiến sĩ văn hóa phải đứng trên lập trường cách mạng, lập trường của chủ nghĩa hiện thực XHCN, chống phản động, chống mọi hình thức văn hóa đồi trụy, thoái bộ, ngu dân…” (5). Để đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta xác lập quan điểm “kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa hóa kháng chiến”. Tức là phải xây dựng tính chất chiến đấu cho nền văn hóa kháng chiến, đồng thời phải khẳng định giá trị văn hóa chân chính, tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến của dân tộc ta chống thực dân Pháp, để nhân loại tiến bộ hiểu được điều đó và ủng hộ cuộc kháng chiến của dân tộc ta. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tích cực đẩy mạnh “kháng chiến, kiến quốc”.

Trong Thư gửi các họa sĩ nhân triển lãm hội họa năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục nêu rõ về tính chất chiến đấu của văn hóa, văn nghệ: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy… Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân” (6). Quan điểm lý luận này đã định hướng cho hoạt động của văn nghệ sĩ, kiến tạo nên một nền văn nghệ kháng chiến hùng hậu, tích cực góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) trên miền Bắc.

3. Quan điểm lý luận của Đảng về văn hóa trong thời kỳ xây dựng CNXH ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam (1955 – 1975)

Cụm từ “xã hội chủ nghĩa” đã được nêu trong đường lối xây dựng nền văn hóa từ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960). Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ vai trò của con người XHCN như sau: “Muốn xây dựng CNXH, phải có con người XHCN” (7). Nghĩa là văn hóa, con người XHCN là nhân tố quyết định sự nghiệp cách mạng của đất nước chúng ta. Như vậy, vấn đề xây dựng văn hóa phải bắt đầu từ việc xây dựng chiến lược con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Từ đây, khái niệm “trồng người” trở nên phổ biến trong ý thức của toàn dân, toàn xã hội. “Trồng người” là cách diễn đạt giản dị về công cuộc đào tạo nên các thế hệ công dân phát triển toàn diện, những thế hệ con người mới XHCN – chủ nhân mới của đất nước. Đó không chỉ là trách nhiệm của mỗi người, mà là trách nhiệm của cả dân tộc, đất nước phải tham gia “trồng người”, trong đó nổi bật lên vai trò của giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội. Trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh ác liệt, miền Nam là tiền tuyến lớn đối mặt chiến đấu với quân thù, miền Bắc là hậu phương lớn XHCN, vừa chống lại chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, vừa lao động sản xuất để cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến lớn, với tinh thần “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Để thực hiện được nhiệm vụ cách mạng ấy, những nội dung cơ bản của nền văn hóa XHCN được xác định là nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức của xã hội mới, bởi lẽ trí tuệ khoa học và cách mạng là yếu tố quan trọng đối với công cuộc xây dựng CNXH. Theo đó, xây dựng con người mới XHCN được phát triển toàn diện cả về đức, trí, thể, mỹ.

Trên thực tế, con người là sản phẩm của lịch sử, nhưng hoạt động của con người đã sáng tạo ra lịch sử, xã hội. Chính vì vậy, trên mặt trận văn hóa, cần xây dựng con người mới XHCN, xây dựng lối sống mới XHCN, tinh thần tập thể XHCN: “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”(8); “Mỗi người làm việc bằng hai, vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả phục vụ sản xuất”, “Tất cả cho tiền tuyến”… Cán bộ, đảng viên phải “chí công vô tư”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” (9). Đây là một đặc trưng có tính nguyên tắc của CNXH và việc xây dựng lối sống mới đã tất yếu trở thành một nội dung quan trọng của nền văn hóa XHCN.

Với sức mạnh kỳ diệu của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của những thế hệ con người Việt Nam XHCN trong thời đại Hồ Chí Minh, ngày 30-4-1975, chúng ta đã giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước cùng đi lên xây dựng CNXH, mở ra một trang sử mới rất đỗi hào hùng trong quá trình phát triển của dân tộc.

4. Quá trình xác lập quan điểm lý luận của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ đổi mới

Cũng như các lĩnh vực kinh tế, xã hội, nhu cầu đổi mới về văn hóa được đặt ra mạnh mẽ sau khi đất nước thống nhất. Trong khoảng 10 năm sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975 – 1985), đất nước ta phải đối mặt với tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội nặng nề, cơ chế bao cấp bộc lộ sự bất cập, và vấn đề đổi mới trở thành yêu cầu bức thiết, vấn đề có tầm quan trọng sống còn của cách mạng Việt Nam. Trước tình hình cấp bách đó, năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã quyết định tiến hành sự nghiệp đổi mới trên phạm vi cả nước. Đảng ta đã có những quyết sách mang tính bước ngoặt về đường lối đổi mới trong phát triển kinh tế xã hội, trước hết là định hướng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành trong cơ chế thị trường định hướng XHCN. Chủ trương quan trọng này đã tạo ra những thay đổi lớn, đặc biệt tác động sâu sắc vào đời sống xã hội và từng bước làm biến đổi thượng tầng kiến trúc, trong đó có đổi mới tư duy lý luận của Đảng trên lĩnh vực văn hóa.

 Mục tiêu chung mà Đảng đặt ra lúc này là phải làm cho Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng được thể chế hóa, hiện thực hóa trở thành nền tảng tư tưởng trong xã hội, là kim chỉ nam cho hành động đổi mới, nhằm khắc phục những yếu kém của hoạt động văn hóa, từng bước thích ứng và phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, giải quyết được các vấn đề xã hội của giai đoạn phát triển mới.

Đảng ta đã nhấn mạnh đến hiệu quả xã hội của các hoạt động văn hóa và yêu cầu “mỗi hoạt động văn hóa, văn nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ XHCN và trình độ thẩm mỹ của nhân dân” (10). Đảng chủ trương xã hội hóa vấn đề văn hóa, Nhà nước cùng với nhân dân xây dựng những cơ sở vật chất – kỹ thuật cần thiết cho văn hóa và nghệ thuật, giữ gìn và tôn tạo những di tích lịch sử, văn hóa.

Nhận rõ vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế xã hội, Đảng chủ trương thành lập mạng lưới các tổ chức hoạt động văn hóa theo mô hình Hội đồng chuyên môn từ quốc gia cho tới địa phương nhằm tránh áp đặt chủ quan trong hoạt động văn hóa. Từ chỗ chấn chỉnh, lập lại trật tự hoạt động văn hóa, Đảng chủ trương tạo cơ chế, hành lang pháp lý thúc đẩy các hoạt động văn hóa phát triển đúng hướng. Từ chỗ đề cao các giá trị tinh thần, ưu tiên triển khai các hoạt động văn hóa đi liền với mục tiêu cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta cập nhật các quan điểm phát triển của thế giới, chủ trương triển khai vấn đề văn hóa gắn với phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của các tầng lớp xã hội.

Cũng trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta tiếp tục nghiên cứu và kế thừa quan điểm lý luận về văn hóa đã được xác lập trong giai đoạn trước, đồng thời sáng tạo, bổ sung một số tiêu chí mới phù hợp yêu cầu phát triển và đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 28-11-1987 của Bộ Chính trị khóa VI lần đầu tiên nêu tính chất của nền văn hóa là “đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết chỉ rõ: “Nền văn hóa mới Việt Nam xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc của Chủ nghĩa Mác – Lênin là một nền văn hóa XHCN đậm đà bản sắc dân tộc”. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VI về Một số vấn đề cấp bách trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay nhấn mạnh đặc trưng nền văn hóa Việt Nam đang xây dựng: “Trong công cuộc xây dựng nền văn hóa XHCN đậm đà bản sắc dân tộc, phải coi trọng đời sống văn hóa của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, quan tâm đời sống tinh thần ở nông thôn và các vùng dân tộc thiểu số” (11).

Kể từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), trong các văn kiện quan trọng của Đảng, cụm từ “xã hội chủ nghĩa” đã ít được sử dụng khi nói đến tính chất của nền văn hóa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã chỉ rõ hơn vấn đề này: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (12).

Trong Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (14-1-1993), Đảng ta xác định văn hóa là bộ phận khăng khít của sự nghiệp đổi mới nhằm bảo đảm dân chủ, tự do cho mọi hoạt động văn hóa. Đảng cũng yêu cầu nâng cao tính chiến đấu của các hoạt động văn hóa, khẳng định mạnh mẽ và sâu sắc những nhân tố mới, những giá trị cao đẹp của dân tộc, khắc phục những gì cản trở quá trình đi lên của đất nước, khắc phục tình trạng “hành chính hóa” các tổ chức văn hóa, nghệ thuật và xu hướng “thương mại hóa” trong lĩnh vực này.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng khẳng định quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Trong thời điểm cuối TK XX, những hiện tượng tiêu cực trong phát triển kinh tế có xu hướng nảy sinh, đòi hỏi Đảng ta phải nhìn nhận toàn diện, sâu sắc đời sống kinh tế, văn hóa – xã hội. Năm 1998, Đảng đã ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, định hướng chiến lược cho phát triển văn hóa nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Khái niệm văn hóa đã được xác định với nội hàm rộng mở hơn so với thời kỳ trước: “Văn hóa Việt Nam là thành quả của hàng nghìn năm lao động và sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Trong thời đại Hồ Chí Minh, với đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta, văn hóa Việt Nam tiếp tục được phát huy, đã góp phần quyết định vào những thắng lợi to lớn của nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH” (13). Theo đó, Đảng ta chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN, gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước.

Với nhận thức sâu sắc về vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển, Đảng ta nhấn mạnh: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII đã nêu rõ 10 nhiệm vụ cụ thể cần phải thực hiện là: “1. Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới; 2. Xây dựng môi trường văn hóa; 3. Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; 4. Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa; 5. Phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ; 6. Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng; 7. Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số; 8. Chính sách văn hóa đối với tôn giáo; 9. Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa; 10. Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa”.

Để triển khai xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cần vận dụng bốn nhóm giải pháp quan trọng: “1. Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa; 2. Xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hóa; 3. Tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa; 4. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa”. Đặc biệt, Đảng đã chỉ rõ trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng đối với công cuộc xây dựng nền văn hóa Việt Nam: “Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng” (14).

Bước sang TK XXI, sự vận động phát triển tư duy lý luận về văn hóa của Đảng ta thể hiện rất rõ trong các văn kiện, nghị quyết liên tục được sáng tạo và ban hành theo những yêu cầu mới từ thực tiễn. Trên cơ sở nền tảng lý luận mác xít, chủ động kế thừa các quan điểm lý luận văn hóa của Đảng trong những giai đoạn trước đồng thời nghiên cứu thêm những cách tiếp cận mới của UNESCO và của nhiều nước trên thế giới về văn hóa, Đảng ta tiếp tục nghiên cứu, phát triển và chuẩn hóa đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam mà đất nước ta đang xây dựng. Để phù hợp với chủ trương mở cửa, hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa, Đảng khẳng định nền văn hóa nước ta phải là nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và từng bước làm rõ nội hàm của các khái niệm “tiên tiến”, “đậm đà bản sắc dân tộc”, để hội nhập mà không hòa tan.

Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, bên cạnh nhận định về những chuyển biến tích cực, quan trọng trong tư duy lý luận, nhận thức về văn hóa, về thực tế đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, Đảng ta thẳng thắn chỉ ra sự chưa tương xứng của văn hóa so với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011), quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được nhấn mạnh, nhưng có sự bổ sung, phát triển đặc trưng và tính chất của nền văn hóa Việt Nam. Nhiệm vụ chăm lo phát triển văn hóa được đúc kết cô đọng hơn, cụ thể hơn, tập trung vào 4 nội dung cơ bản là: “1. Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng; 2. Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa truyền thống, cách mạng; 3. Phát triển hệ thống thông tin đại chúng; 4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hóa…”(15).

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ;…” (16).

 Tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ của nền văn hóa Việt Nam là sự bổ sung, phát triển quan điểm lý luận của Đảng về văn hóa trong thời kỳ đổi mới. Tính nhân văn của nền văn hóa thể hiện ở ngay trong mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ xây dựng văn hóa mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra. Đây là nền văn hóa hướng tới đấu tranh, giải phóng con người, trước hết là nhân dân lao động khỏi sự áp bức, bóc lột về phương diện giai cấp, dân tộc và xã hội; phấn đấu để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; tạo điều kiện để nhân dân tham gia sáng tạo, hưởng thụ nhiều hơn những thành tựu văn hóa của dân tộc và nhân loại.

Tính dân chủ của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là dân chủ XHCN, gắn liền với chế độ chính trị – xã hội tiến bộ “của dân, do dân và vì dân”. Nền văn hóa này khai thác động lực dân chủ trong nhân dân, tạo điều kiện để phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân và cộng đồng, đề cao trách nhiệm của công dân trước nhân dân, dân tộc và thời đại.

 Tuy nhiên, phát huy dân chủ phải gắn liền với việc nâng cao ý thức chính trị, đạo đức xã hội và trình độ dân trí, tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng bộ máy nhà nước, chống lãng phí, tham nhũng, quan liêu và các tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước và ngoài xã hội.

 Tính chất tiến bộ của văn hóa chính là hệ tư tưởng cách mạng và khoa học dẫn đường cho sự phát triển của xã hội: đó là Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm lý luận cách mạng khoa học của Đảng thời kỳ đổi mới. Nền văn hóa tiến bộ cũng là nền văn hóa thể hiện tinh thần nhân văndân chủ sâu sắc.

Năm 2014, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã nêu ra định hướng cần thiết, đúng đắn Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Với việc xác định tư tưởng chỉ đạo đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, Đảng quán triệt trọng tâm về việc đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Mục tiêu hướng tới là tạo chuyển biến mạnh mẽ ý thức tôn trọng pháp luật, hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc; tôn vinh những giá trị Chân, Thiện, Mỹ; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn; đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực làm tha hóa con người; ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (2014) còn tiếp tục bổ sung, phát triển và làm rõ hơn đặc trưng và tính chất của nền văn hóa Việt Nam. Đó là nền văn hóa “thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam” với tinh thần “nhân văn, dân chủ, tiến bộ” được bổ sung, phát triển với đặc trưng không chỉ nhân văn, dân chủ mà còn mang đặc trưng: dân tộc và khoa học. Nghị quyết nêu rõ: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”(17). Đây chính là sự phát triển tư duy lý luận của Đảng: nhận thức rõ hơn và sâu sắc hơn về mối quan hệ khăng khít giữa xây dựng văn hóa với xây dựng con người. Cụ thể là cần phát triển văn hóa hướng tới mục tiêu vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để thúc đẩy sự phát triển văn hóa; Con người là chủ thể sáng tạo, truyền bá, thụ hưởng văn hóa, là trung tâm của sự phát triển. Trên cơ sở đó, nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam lần đầu tiên được Đảng ta đưa lên tiêu đề, đồng thời là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng hàng đầu trong sáu nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Đây là dấu ấn đặc biệt của Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về văn hóa.

5. Những sáng tạo mới của Đảng trong quan điểm lý luận về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam – nguồn sức mạnh nội sinh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (2015 – 2020)

Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tiếp tục kế thừa các quan điểm lý luận về văn hóa của các nhiệm kỳ trước, Đảng đưa ra định hướng: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (18); và coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó đặc biệt chú ý tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, đồng thời phải phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trên phạm vi cả nước.

 Gần đây, trong Dự thảo các văn kiện trình đại hội XIII đã nêu rõ những quan điểm mới của Đảng về xây dựng phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong tình hình hiện nay. Đảng đã nêu rõ định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, trong đó phân tích những nội dung cụ thể cần được triển khai một cách chắc chắn là: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước” (19).

“Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho thanh niên. Thực hiện những giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam đã tồn tại trong lịch sử; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại” (20). Theo đó, cần tiếp tục xây dựng và phát triển một số lĩnh vực văn hóa cụ thể như: triển khai có trọng tâm trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa; văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh; văn hóa công sở; văn hóa công vụ; “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa, xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc tế” (21); Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng, có sự thống nhất hữu cơ giữa tính tiên tiến và tính đậm đà bản sắc dân tộc, giữa nhân văn, dân chủ, khoa học và hiện đại. Có thể nói, đây chính là sự khái quát cao độ, tổng kết kinh nghiệm, bổ sung và phát triển lý luận về văn hóa trong quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam của Đảng hơn 90 năm qua. Trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, Đảng ta đều nghiên cứu, sáng tạo, đề xuất những quan điểm lý luận về văn hóa phù hợp với yêu cầu thực tiễn và nhiệm vụ cách mạng, từng bước xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trên những tầm cao mới.

_________________

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng 1930-1945, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1970, tr.363, 361.

3. Hồ Chí Minh toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, tr.431.

4. Trường Chinh, Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1974. tr.5.

5. PGS.TS. Trần Thái Học, Quan điểm văn hóa, văn nghệ của đồng chí Trường Trinh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.92.

6, 7, 8, 9. Hồ Chí Minh, Về công tác tư tưởng văn hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.210, 460, 461, 462.

10. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Một số văn kiện của Đảng về công tác tư tưởng – văn hóa, tập 2 (1986 – 2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.47.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 49, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.746.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.134.

13, 14, 15, 16. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.40-41, 70-82, 222-223, 75.

17, 18. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.48, 126.

19, 20, 21. Đảng Cộng sản Việt Nam, Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Phụ trương đặc biệt Báo Nhân Dân, ngày 20-10-2020.

Tác giả: Nguyễn Toàn Thắng

Nguồn: Tạp chí VHNT số 452, tháng 2-2021

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *