Tâm huyết hướng về Hội nghị Văn hóa toàn quốc


LTS: Ngày 24-11-2021, Ban Bí thư Trung ương Đảng sẽ chủ trì, chỉ đạo Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Hội nghị sẽ diễn ra dưới hình thức trực tuyến toàn quốc với điểm cầu chính tại Hà Nội.

Đây là hội nghị có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm đánh giá việc triển khai đường lối, chủ trương, các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng về công tác văn hóa, văn nghệ thời gian qua; kết quả xây dựng văn hóa, con người Việt Nam sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt là kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng về công tác văn hóa, văn nghệ; tiếp tục quán triệt sâu sắc, triển khai các quan điểm, chủ trương về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các phát biểu chỉ đạo của Lãnh đạo Đảng về công tác văn hóa, văn nghệ; từ đó thống nhất phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác văn hóa, văn nghệ trong giai đoạn 2021-2026, tầm nhìn đến năm 2045. Hội nghị là diễn đàn lắng nghe những ý kiến đóng góp của các cơ quan, đơn vị, chia sẻ của các nhà văn hóa, trí thức, văn nghệ sĩ quyết tâm đồng hành với dân tộc, với sự nghiệp cách mạng của Đảng, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, triển khai thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Hội nghị cũng là dịp cổ vũ, động viên các nhà văn hóa, trí thức, văn nghệ sĩ tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất trong ý chí, hành động; liên kết các lực lượng làm công tác văn hóa, văn nghệ trong và ngoài nước tạo thành một mặt trận đồng lòng, dốc sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại.

Trước thềm hội nghị, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật đã nhận được những ý kiến đóng góp tâm huyết của các nhà văn hóa, trí thức, văn nghệ sĩ hướng về hội nghị hết sức quan trọng và rất có ý nghĩa này.

Tái hiện phiên chợ vùng cao tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam – Ảnh tư liệu của Nguyễn Thanh Hà

 

GS, TS, NGND Trần Văn Bính: Các hoạt động văn hóa phải phát huy sức mạnh nội sinh…

Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa nước ta bước sang một quỹ đạo mới. Từ một nền văn hóa lạc hậu, ngu dân do chế độ thực dân và bè lũ tay sai tạo nên, văn hóa Việt Nam thực sự trở thành một nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng. Cùng với việc phát huy các giá trị tinh thần cao đẹp của dân tộc từ xa xưa, văn hóa Việt Nam được soi sáng bởi các tư tưởng cách mạng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, mà tiêu biểu là của Đảng ta và của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để chuẩn bị cho Hội nghị Văn hóa toàn quốc 24-11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra ba thứ giặc mà chúng ta phải tập trung tiêu diệt: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Người đã sớm chỉ ra vai trò và sức mạnh to lớn của mặt trận văn hóa đối với sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Cái mà bây giờ chúng ta nói: sức mạnh nội sinh của văn hóa chính là ở đó. Cũng từ đó Bác đã nêu khẩu hiệu: “Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”.

Trong khi tuyên truyền khẳng định những nhân tố mới của thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vẫn quan tâm các giá trị truyền thống của dân tộc, coi đó là cội nguồn, là sức mạnh của dân tộc, của văn hóa dân tộc. Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Bác Hồ đã ký hàng loạt các sắc lệnh về giữ gìn, tôn tạo các đền đài, miếu mạo, các công trình văn hóa xa xưa của dân tộc. Tác phẩm bằng thơ Lịch sử nước ta của Bác viết năm 1942 đã thể hiện thái độ tôn vinh và tự hào về truyền thống lịch sử ngàn năm dựng nước và giữ nước.

Từ sau Đại hội VI của Đảng năm 1986, sự nghiệp văn hóa bước sang một thời kỳ mới. Cùng với rất nhiều thời cơ và thuận lợi, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa cũng gặp nhiều khó khăn. Đó là xu hướng toàn cầu hóa và kinh tế thị trường. Toàn cầu hóa và kinh tế thị trường thúc đẩy các hoạt động văn hóa trở nên sôi động. Chúng ta có dịp tiếp xúc với các giá trị văn hóa của các dân tộc, của thế giới, nhưng toàn cầu hóa cũng tạo điều kiện để những “rác rưởi” đâu đó xâm nhập vào nền văn hóa của ta. Kinh tế thị trường đòi hỏi sự sáng tạo, tìm tòi, cá tính của các chủ thể văn hóa, nhưng cũng “đẻ ra” những thói hư tật xấu, sẵn sàng xâm nhập vào các cơ thể. Nguy cơ lớn nhất mà toàn cầu hóa và kinh tế thị trường có thể dẫn tới là làm xói mòn nền tảng tinh thần của xã hội. Trước tình hình đó, cùng với các hoạt động về chính trị và kinh tế, các hoạt động văn hóa phải phát huy sức mạnh nội sinh, phải trở thành giá đỡ về tinh thần cho sự phát triển đất nước trong thời kỳ lịch sử mới.

Nếu trước đây, trong cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược, Bác Hồ nêu khẩu hiệu “Kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa hóa kháng chiến” thì ngày nay, nên chăng, phải nêu khẩu hiệu “Đổi mới hóa văn hóa và văn hóa hóa đổi mới”. Nói một cách dễ hiểu, văn hóa trong thời đổi mới phải phục vụ đắc lực cho sự nghiệp đổi mới, mặt khác, sự nghiệp đổi mới phải được tiến hành theo những chuẩn mực và giá trị văn hóa. Văn hóa và đổi mới, tuy hai mà một, tuy một mà hai, như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định. Với ý nghĩa đó, văn hóa phải thực sự được sự quan tâm thường xuyên, thấu đáo, phải được đặt ngang hàng với các hoạt động về kinh tế và chính trị, như Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định.

PGS, TS Bùi Hoài Sơn – Ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội: Hy vọng giúp giải quyết những vấn đề thực tiễn trong phát triển văn hóa, con người Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi văn hóa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển bền vững đất nước. Chính vì vậy, trong nhiều năm qua, Đảng và Chính phủ đã có nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành quan trọng để phát triển văn hóa. Để lắng nghe ý kiến của đội ngũ văn nghệ sĩ – những chiến sĩ tiên phong trong lĩnh vực nghệ thuật – cách đây đúng 75 năm, ngày 24-11-1946, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức với 200 nhà hoạt động văn hóa do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì. Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai (1948) với hơn 80 văn nghệ sĩ tiêu biểu do các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương chủ trì. Qua các hội nghị này, những tư tưởng quan trọng nhất về văn hóa như Văn hóa soi đường quốc dân đi; Văn hóa là một mặt trận, anh chị em văn nghệ sĩ là những chiến sĩ trên mặt trận đó; Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam… đã truyền cảm hứng cho những người làm việc trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật phấn đấu hết mình cho sự nghiệp cách mạng, hình thành nên một nền văn hóa cứu quốc làm nên những chiến thắng vẻ vang cho dân tộc từ sức mạnh của văn hóa.

Kể từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng đã đặt ra nhiều thách thức, cũng như thời cơ cho sự phát triển đất nước nói chung, văn hóa nói riêng. Vì vậy, phát triển văn hóa kiến quốc, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước hùng cường trở thành một nhiệm vụ trọng tâm, có tính đột phá.

Gần đây, việc ban hành đồng bộ từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín (Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI) ngày 8-6-2014, Nghị quyết số 102/NQ-CP ngày 31-12-2014 của Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín, Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết của Bộ VHTTDL cũng như các bộ, ngành và địa phương đã đặt ra những cách tiếp cận, quan điểm và vấn đề mới đối với sự phát triển văn hóa. Cùng với đó, việc xây dựng một Chính phủ hành động và kiến tạo đòi hỏi một tư duy mới về quản lý văn hóa, theo đó, quản lý văn hóa cần hướng tới sự chủ động hỗ trợ hoạt động văn hóa – nghệ thuật, tiếp cận gần hơn quy luật thị trường trong sản xuất, phân phối, tiêu dùng và hưởng thụ văn hóa. Quan điểm văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội, xây dựng thị trường văn hóa đi đôi với phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng văn hóa doanh nghiệp, đạo đức kinh doanh để văn hóa thực sự là hệ điều tiết cho sự phát triển kinh tế – xã hội là những tư tưởng mới cần được thảo luận rộng rãi để lấy ý kiến các chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà quản lý cho định hướng cụ thể phát triển văn hóa trong những năm sắp tới.

Văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp lâu dài của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng, cần phải được thực hiện một cách kiên trì, thận trọng. Chính vì thế, việc tổ chức Hội nghị Văn hóa quốc gia để lãnh đạo Đảng, Nhà nước đưa ra những thông điệp quan trọng về văn hóa, cũng như là cơ hội để huy động trí tuệ tập thể của đội ngũ văn nghệ sĩ, hiến kế phát triển văn hóa là hết sức cần thiết. Sau Hội nghị này, chắc chắn các quan điểm chỉ đạo, định hướng lớn cũng như các ý kiến tâm huyết sẽ thể chế hóa, giúp giải quyết những vấn đề thực tiễn trong phát triển văn hóa, con người Việt Nam, để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội.

NSND, Họa sĩ Vương Duy Biên – nguyên Thứ trưởng Bộ VHTTDL, Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam: Phải tạo ra nhận thức mới đối với các vấn đề văn hóa nói chung và văn học nghệ thuật nói riêng

Có thể nói, thời điểm này, Hội nghị Văn hóa toàn quốc được tổ chức rất có ý nghĩa, nhất là vào thời điểm chúng ta đang cần chấn hưng văn hóa dân tộc.

Trong những năm qua, đường lối của Đảng và Nhà nước đã xác định rất rõ, văn hóa góp phần xây dựng con người mới, con người phải phù hợp, đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội và tình hình đổi mới của đất nước. Trong đó, cần nhấn mạnh đến yếu tố nguồn nhân lực, vai trò của những người làm trong lĩnh vực văn hóa. Đối với hệ thống thiết chế văn hóa rộng khắp cả nước như hiện nay, những người làm công tác điều hành guồng máy đó phải đóng vai trò chủ chốt, phải xác định tiêu chuẩn cần và đủ đối với các chức danh này, với cách nhìn nhận đúng đắn và được sự quan tâm thích đáng.

Trong nhiều năm gần đây, khi nói về sự phát triển của một quốc gia, thường nói tới chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Về lý thuyết, 4 yếu tố này được đặt ngang hàng nhau. Nhưng trong thực tế, văn hóa chưa được đặt đúng tầm với các lĩnh vực khác, nhất là với kinh tế. Nhiều chủ trương, đường lối, các văn bản chính sách đã nói tới tầm quan trọng của văn hóa: Văn hóa là mục tiêu, nền tảng, động lực của sự phát triển… Nhưng ở ta chưa có được những điều kiện tương xứng để phát triển văn hóa, mà gốc của nó là từ con người, thiết chế, sự quan tâm, đầu tư… Hiện nay, chúng ta đang sống trong thế giới phẳng, vấn đề giữ gìn bản sắc dân tộc ngày càng trở nên khó khăn hơn. Chính vì vậy, chúng ta rất cần những người làm văn hóa có bản lĩnh, dựa trên nền tảng văn hóa dân tộc chứ không phải sử dụng thước đo giá trị của bất kỳ quốc gia nào khác để duy trì và phát triển bản sắc văn hóa của dân tộc mình!

Nhìn chung, ở lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, tôi cho rằng, việc cần thiết trước tiên phải là vấn đề đầu tư về nguồn nhân lực, cộng với sự quan tâm của Nhà nước bằng chính sách, bằng những nguồn lực dành cho văn hóa, văn nghệ.

Đối với Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm nay, tôi cũng rất kỳ vọng, trước tiên, nó sẽ tạo ra một nhận thức mới đối với các vấn đề về văn hóa nói chung và văn học nghệ thuật nói riêng. Trước những vấn đề còn tồn tại, cần có sự tham gia đóng góp của những con người cụ thể, những người đã và đang hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật cả nước. 

Trong khi truyền thông đang thuận lợi như hiện nay, việc lan tỏa thông tin sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn, nhận thức của con người, của cộng đồng sẽ đầy đủ hơn. Bên cạnh đó, khi Đảng và Nhà nước có quyết tâm hơn nữa thì Hội nghị sẽ là bước tiến mới cho công tác văn hóa văn nghệ trong tương lai.

NSNA Trần Thị Thu Đông – Đại biểu Quốc hội, Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam: Đảng và Nhà nước cần có chính sách ưu tiên đầu tư hơn nữa cho Nhiếp ảnh

Các thế hệ Nhiếp ảnh Việt Nam đã có đóng góp rất lớn trong hai cuộc kháng chiến giành độc lập và xây dựng đất nước của dân tộc. Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, Nhiếp ảnh là một lực lượng hội nhập quốc tế sớm và mạnh mẽ nhất, đóng góp tích cực vào việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trên trường quốc tế, để văn hóa góp phần tăng cườngng năng lực cạnh tranh quốc gia. Tuy nhiên, hiện nay lực lượng nhiếp ảnh được đào tạo chính quy, chuyên nghiệp, chất lượng cao chưa nhiều, chưa xứng tầm với yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của thời kỳ mới. Vì thế, Đảng và Nhà nước cần có chính sách ưu tiên đầu tư hơn nữa để ươm tạo và bồi dưỡng nhân tài, phát triển đội ngũ kế cận cho tương lai.

Giới Nhiếp ảnh nước nhà cũng mơ ước và rất thiết tha được Đảng, Nhà nước quan tâm đầu tư cho xây dựng một bảo tàng nhiếp ảnh để sưu tầm, lưu giữ, bảo quản, trưng bày những bức ảnh có giá trị về tư liệu, lịch sử, nghệ thuật và những hiện vật có liên quan. Vì hiện nay, nếu xét ở góc độ nghệ thuật tạo hình, Việt Nam đã có các Bảo tàng Mỹ thuật như Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam tại Hà Nội, Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM, Bảo tàng Mỹ thuật Đã Nẵng… nhưng lại chưa có một bảo tàng nhiếp ảnh nào ngoài 1 bảo tàng nhiếp ảnh tư nhân rất khiêm tốn của làng nghề Lai Xá, Hà Nội. Trong khi nhiếp ảnh đã du nhập vào Việt Nam trên 150 năm, và nhìn ra thế giới chúng ta thấy có rất nhiều bảo tàng nhiếp ảnh như ở Mỹ, Nhật Bản, Hà Lan, Trung Quốc, Anh, Pháp, Italia, Australia, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Bỉ, Phần Lan…

Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã luôn dành cho sự nghiệp phát triển văn hóa nói chung và văn học, nghệ thuật nói riêng sự quan tâm và những kỳ vọng lớn lao. Từ đấy, nền văn hóa, văn học, nghệ thuật Việt Nam đã có những bước chuyển mình sâu sắc, mạnh mẽ.

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thừa nhận là những thành tựu văn hóa, văn học, nghệ thuật mà Việt Nam đã đạt được từ khi đất nước đổi mới đến nay chưa tương xứng với sự phát triển của đất nước, còn ít những công trình, tác phẩm văn học, nghệ thuật đỉnh cao. Thực trạng đáng lo ngại đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân sau:

Thứ nhất, các cấp lãnh đạo quản lý, các địa phương, các ngành có lúc, có nơi còn biểu hiện chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của văn hóa nói chung và của văn học, nghệ thuật nói riêng nên chưa có cơ chế phù hợp và hữu hiệu để đưa các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước đi vào cuộc sống. Nói chính xác là, chúng ta đang thiếu các cơ chế hiệu quả, đủ mạnh, có năng lực thích ứng cao với sự biến đổi toàn cầu và với cơ chế thị trường, phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành Văn hóa, trong đó có văn học, nghệ thuật.

Thứ hai, nguồn lực đầu tư cho sự nghiệp phát triển văn hóa nói chung, cho văn học, nghệ thuật nói riêng còn rất thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu. Đặc biệt là đầu tư cho việc xây dựng những công trình văn hóa lớn, tầm cỡ quốc gia, mang dấu “vân tay” Việt Nam; đầu tư cho việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy, làm giàu thêm bản sắc dân tộc. Đây chính là yếu tố rất quan trọng góp phần hình thành “kháng thể văn hóa” trong hành trang hội nhập của dân tộc Việt Nam.

Thứ ba, sự thiếu chủ động, năng động, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Từ thực tế cho thấy, mặc dù đường lối của Đảng và chiến lược của Nhà nước là đầy đủ, đúng đắn nhưng lại chưa thấm sâu được vào đời sống văn học, nghệ thuật nước nhà. Cho nên, tôi kỳ vọng, qua Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần này sẽ chỉ ra đúng những nguyên nhân chủ quan và khách quan của tình hình văn hóa, văn nghệ thời gian qua, từ đó đề xuất những kiến nghị, những giải pháp khả thi, thiết thực để đưa đường lối của Đảng vừa được khẳng định tại Đại hội Đảng lần thứ XIII vào cuộc sống.

Nhà văn Bùi Việt Thắng: Văn hóa – nền tảng phát triển văn học nghệ thuật

Hội nghị Văn hóa toàn quốc dự kiến tổ chức vào ngày 24-11-2021 là một sự kiện văn hóa lớn của đất nước mở đầu thập niên thứ ba TK XXI; có thể coi là Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ ba (diễn ra vào các thời điểm 1946, 1948, 2021). Trong diễn văn đọc tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, Hồ Chủ tịch nhấn mạnh: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Trong thư gửi Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai, Hồ Chủ tịch nêu cao khẩu hiệu chiến lược: “Kháng chiến hóa văn hóa. Văn hóa hóa kháng chiến”. Là người làm công tác văn học nghệ thuật, chúng tôi chờ đón một chính cương văn hóa như hai đại hội trước đã được Lãnh tụ Hồ Chí Minh vạch đường chỉ lối.

Nói văn hóa là nền tảng phát triển văn học nghệ thuật, là nói đến cái gốc rễ, cái căn cơ của mọi hoạt động tinh thần của con người. Nền tảng ấy hiển thị trong không gian văn hóa (theo một cách nói khác là “thổ nhưỡng” văn hóa). Một nền văn học nghệ thuật “khỏe mạnh”, có cơ đồ và tương lai phải được sinh ra và nuôi dưỡng trong một bầu không khí/ không gian văn hóa lành mạnh, mở mang vì “ngoài trời còn có trời”. Theo tôi, văn hóa hiện đại Việt Nam hấp thu trong mình các thành tố: Tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc, nhân loại. Nhưng riêng với hoàn cảnh Việt Nam, cần được làm giàu có thêm bằng văn hóa Hồ Chi Minh (thuộc phạm trù Văn hóa tương lai như nhận xét của nhà văn, nhà báo Xô – viết tài năng Mandenstam, từ năm 1923). Văn hóa Hồ Chí Minh gắn với “Văn hóa Đảng” mang tính đặc thù Việt Nam (vì 91 năm qua, đất nước phát triển dưới sự lãnh đạo của một đảng duy nhất – Đảng Cộng sản Việt Nam). Văn hóa Đảng hấp thu tinh hoa Văn hóa Hồ Chí Minh ở sức mạnh nêu gương. Vì thế trong các văn kiện về tổ chức (Đảng, Quân đội, Công an) thường cụm từ “trong sạch” bao giờ cũng đi trước “vững mạnh”. Nhân dân đang từng giờ, từng ngày nhìn vào những tấm gương trong sáng của những người Cộng sản chân chính suốt đời phụng sự đất nước với tinh thần “dĩ công vi thượng”. Khi có 5 triệu đảng viên trên 96 triệu dân số (trong nước) thì phát huy sức mạnh của Văn hóa Đảng không phải là điều không thể thực thi.

 Nói văn hóa là nền tảng phát triển văn học nghệ thuật, không thể chỉ là câu nói đầu cửa miệng hay một khẩu hiệu đơn thuần. Vấn đề là tổ chức thực hiện, đưa văn hóa vào đời sống thấm nhuần đến từng chân tơ kẽ tóc. Tạo nền tảng văn hóa để phát triển văn học nghệ thuật cần hội đủ các yếu tố nhân lựcvật lực. Muốn có nhân lực và vật lực ngang tầm hoạch định đường lối văn hóa thì phải có chính sách văn hóa phù hợp, thực tiễn. Vật lực giúp đỡ, động viên, cổ vũ nhân lực (vì “có thực mới vực được đạo”). Văn nghệ sĩ, đặc biệt văn giới, sống thanh bần, đặc biệt khó khăn trong những biến cố bất khả kháng (ví như đại dịch COVID-19 vừa qua). Sản phẩm văn hóa trong cơ chế thị trường đang gặp khó khăn lớn trong các khâu đầu tư sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Không thể tính lời lãi tức thì với sản phẩm văn hóa. Vai trò của Nhà nước, không riêng gì ở Việt Nam, rất quan trọng với sự nghiệp phát triển văn hóa. Vì văn hóa là của để dành, là vốn liếng của một dân tộc để sánh vai cùng thiên hạ năm châu bốn biển. Việt Nam không thể “khoe” với thế giới về tàu vũ trụ, cũng như những tập đoàn “khủng” kiểu Microsoft của Bill Gates… Việt Nam chỉ có thể hòa nhập với thế giới bằng văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc theo tinh thần hòa nhập nhưng không hòa tan.

Đã thấp thoán đâu đó chính sách văn hóa mới nhằm kích hoạt văn học nghệ thuật phát triển bền vững (ví dụ như Đề án đào tạo tài năng sáng tạo văn học của Bộ VHTTDL, từ 2017, đã từng bước được hiện thực hóa tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội; địa chỉ trực tiếp là Khoa Viết văn – Báo chí, từ niên học (2019-2020). Như cổ nhân nói “Chậm còn hơn không”.

NSƯT Nguyễn Sĩ Tiến – Phó Giám đốc Nhà hát Tuổi trẻ: Cần có sự đầu tư thỏa đáng về đội ngũ sáng tác

Song song với nhiệm vụ phục vụ mục tiêu chính trị, Nhà hát Tuổi trẻ đã và đang không ngừng nâng cao chuyên môn, nghệ thuật. Với vai trò là một nhà hát dành cho khán giả trẻ nên các chương trình nghệ thuật của nhà hát luôn có nội dung chủ yếu phục vụ đối tượng khán giả là thanh, thiếu niên, nhi đồng như: Hoàng tử học nghề, Hòn đá cháy, Dế mèn phiêu lưu ký, Trả lại em trang sách… Đối tượng này chiếm tỷ lệ khá cao trong toàn bộ kịch mục đã được dàn dựng. Các vở diễn đề tài hiện đại khá đa dạng, từ hiện thực như: Đứa con tôi, Lời thề thứ chín, đến những tìm tòi trong cấu trúc phân mảnh và thủ pháp đồng hiện như vở: Đỉnh cao mơ ước… Các vở kịch dành cho học sinh, sinh viên và thanh niên đã trở thành hiện tượng sân khấu ở nhiều giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội như: Tin ở hoa hồng, Đứa con tôi, Ai là thủ phạm, Hoa cúc xanh trên đầm lầy… Bên cạnh những đề tài hiện đại nóng hổi, Nhà hát còn có những vở lấy đề tài cổ tích hoặc lịch sử như: Tấm Cám, Lời nói dối cuối cùng, Vũ Như Tô, Rừng trúc… Nhiều tác phẩm kinh điển đã tồn tại khá lâu trên sân khấu nhà hát như: Othello,Macbeth, Romeo và Juliet của Shakespeare; Trưởng giả học làm sang của Molière; Âm mưu và tình yêu của Sinle…, cùng hàng trăm chương trình ca múa nhạc tạp kỹ khác. Trong số đó, có nhiều chương trình đã trở thành những kỷ niệm đẹp, nhớ mãi của không ít lứa khán giả nhỏ tuổi, đến nay đã trưởng thành.

Hiện nay, do ảnh hưởng của dịch bệnh nên việc đưa khán giả quay lại với sân khấu rất khó khăn. Việc đầu tư cho tác phẩm cũng có nhiều hạn chế về kịch bản, hạ tầng cơ sở và nguồn lực xây dựng tác phẩm cũng như con người. Do vậy, cần có sự đầu tư thỏa đáng về đội ngũ sáng tác. Họ cần được đào tạo bài bản, có chế độ đãi ngộ phù hợp để yên tâm cống hiến cho sự nghiệp sân khấu lâu dài. Đội ngũ sáng tác văn học và kịch bản cho tuổi trẻ là bản lề căn bản định hướng nhiều hoạt động mang tính giáo dục, góp phần định hướng lối sống lành mạnh cho giới trẻ, phát triển xã hội hiện đại, văn minh theo kịp xu thế của khu vực và thế giới. Cần có sự chỉ đạo phối hợp, hỗ trợ đồng bộ của các ban, ngành, đoàn thể như: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung ương Đoàn, Hội đồng Đội Trung ương, các nhà xuất bản… để hình thành thói quen tốt cho trẻ em có nhu cầu thưởng thức văn hóa, nghệ thuật. Vì văn hóa nghệ thuật giữ vai trò quan trọng vào việc phát triển nhân cách, hình thành ý thức trách nhiệm với gia đình, xã hội, đất nước của mỗi công dân.

Giai đoạn hiện nay, Việt Nam được đánh giá là một quốc gia trẻ về dân số, các chỉ số phát triển xã hội ngày một nâng cao, nhu cầu thụ hưởng văn hóa đang đòi hỏi nhiều hơn nữa những giải pháp mới. Bởi việc phản ánh đời sống xã hội cũng không thể tách rời nhằm từng bước nâng cao giá trị Chân – Thiện – Mỹ cho các tầng lớp khán giả. Nhà hát Tuổi trẻ trực thuộc Bộ VHTTDL nên mọi hoạt động của nhà hát đều nằm trong tổng thể chung của Bộ với định hướng đưa văn hóa lên ngang tầm nhiệm vụ như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định. Có thể nói, Nhà hát Tuổi trẻ đã, đang và sẽ tiếp tục đem đến cho khán giả nói chung, đặc biệt là khán giả trẻ nói riêng, những món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống. Công chúng trẻ vừa là đối tượng được phục vụ, được thụ hưởng nhưng họ cũng là những chủ nhân tương lai của đất nước. Để giữ mãi ngọn lửa sân khấu, viết tiếp những ước mơ cho tuổi trẻ, đó là trách nhiệm của tất cả chúng ta và của các nghệ sĩ Nhà hát Tuổi trẻ.

Tôi thực sự mong muốn Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm nay sẽ có những đề cập hữu ích giúp các hoạt động nghệ thuật dành cho thanh, thiếu nhi phát triển tốt hơn nữa.

Nguồn: Tạp chí VHNT số 479, tháng 11-2021

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *