Tín ngưỡng dân gian Việt Nam chủ yếu dựa trên ý thức, tâm lý tri ân sức mạnh phù trợ của các lực lượng tự nhiên, giúp cho con người bảo tồn sự sống, cùng lòng biết ơn, ngưỡng mộ của các thế hệ nối tiếp nhau đối với tiền thần, tiền nhân. Từ tâm thức, tâm lý sùng bái đó, trong các cộng đồng dân tộc, tộc người đã hình thành nên các phong tục tập quán, nghi lễ thờ cúng các lực lượng tự nhiên, thể hiện qua nhiều hình thức thực hành đa dạng. Tâm lý hướng tâm góp phần hình thành nên tâm lý dân tộc, xuất phát từ những ý nghĩ, tình cảm để xây đắp một đời sống nội tâm, tồn tại ở thế giới bên trong của con người, chi phối, điều hành mọi hành vi của con người trong mối quan hệ với cộng đồng tộc người hay dân tộc.
Từ ý thức cộng cảm, cộng mệnh đến tâm lý hướng tâm truyền thống
Nhìn về khởi nguồn tạo lập diện mạo quốc gia, dân tộc thời các vua Hùng dựng nước Văn Lang đến nay, trải qua nhiều nghìn năm, hệ thống các dân tộc, tộc người ở Việt Nam được phân chia theo 2 nhóm ngôn ngữ Tày – Thái, Mông – Dao. Các tộc người theo hệ ngôn ngữ Việt – Mường chiếm lĩnh mặt bằng văn hóa rộng lớn, có ở các vùng Việt Bắc, Tây Bắc, trung du, châu thổ Bắc Bộ. Theo xác định thành phần các dân tộc Việt Nam của các nhà khoa học, phần lớn các dân tộc thiểu số thuộc hai hệ ngôn ngữ này chủ yếu sinh sống tại các tỉnh vùng núi phía bắc; trong đó, các dân tộc thuộc ngữ hệ Tày – Thái gần như chiếm vị trí, vai trò chủ đạo đối với sự hình thành tộc người, nền văn hóa bản địa tại các tỉnh, các khu vực địa phương. Từ trước khi vùng đất Cao – Bắc – Lạng, Thái – Hà – Tuyên trở thành chiến khu Việt Bắc, trực thuộc sự quản lý hành chính của Nhà nước, đồng bào các dân tộc anh em sống trên mảnh đất này đều mang trong mình niềm tự hào về cội nguồn, về truyền thống dựng nước, giữ nước của ông cha từ thời đại Hùng Vương. Qua nghìn năm Bắc thuộc, ngót 10 thế kỷ, các dân tộc anh em đã cùng các triều đại phong kiến Việt Nam đứng lên chống ngoại xâm, bảo vệ quyền độc lập tự chủ của Việt Nam. Tiến trình hình thành tộc người từ những năm tháng xa xưa ấy, chung quy, luôn gắn chặt với vận mệnh dựng nước, giữ nước của cộng đồng quốc gia Việt Nam đa dân tộc.
Đứng trước những thách thức khắc nghiệt của tự nhiên, lịch sử xã hội, đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Mông, Sán Chay, Thái, Dao… chủ yếu dựa vào sự truyền dạy kinh nghiệm của thế hệ này cho thế hệ khác trong những phạm vi dòng họ hay một cộng đồng làng bản nhất định, giới hạn trong không gian khép kín của những nhóm người dựa vào nhau mà tồn tại. Mọi hình thức tự quản, tự phát triển đều là sản phẩm sáng tạo của tập thể các thành viên trong cộng đồng, dựa theo các phong tục, tập quán, tín ngưỡng vốn đã sản sinh trong cuộc sống của tộc người. Chính vì vậy, môi trường giáo dục truyền thống cổ xưa của các dân tộc, tộc người chủ yếu được giới hạn bằng không gian văn hóa truyền miệng. Kho tàng văn hóa dân gian, cụ thể là các hệ thống truyện kể, các bài ca dao dân ca, tục ngữ, các luật tục cùng những không gian thiêng dành cho thực hành tín ngưỡng tại từng cộng đồng lớn, nhỏ khác nhau, đã trở thành lịch sử, văn học, triết học, thiên văn học, đạo đức học của con người sống trong không gian văn hóa đó.
Đương nhiên, dù gắn bó, cố kết, khép kín bao nhiêu thì đời sống văn hóa của cộng đồng tộc người vẫn không tránh khỏi những ảnh hưởng qua lại giữa văn hóa làng bản với nhau. Điều này có được qua những cuộc giao lưu, qua quá trình du canh, du cư với đặc điểm chủ yếu là định cư đan xen, nhất là qua những biến động lịch sử. Sự trôi dạt của một tộc người hay một nhóm người nhất định tất yếu sẽ diễn ra những chu kỳ sáng tạo, kế thừa, loại bỏ những nếp sống, thói quen, tri thức không cần thiết để hội nhập, phù hợp trong quá trình tiếp thu những tri thức mới tại môi trường sinh sống mới. Trên tiến trình vận động để tồn tại, phát triển của từng tộc người, những yếu tố giáo dục truyền thống luôn đóng vai trò then chốt, được duy trì trong phạm vi gia đình, dòng họ từ đời này sang đời khác một cách chặt chẽ. Tính bền vững của quy trình giáo dục trong gia đình các dân tộc thiểu số vì thế luôn biển hiện rõ nét.
Trong suốt nhiều năm bị đô hộ, đồng bào các dân tộc thiểu số bản địa đã luôn luôn song hành với người Kinh, trường kỳ vượt qua những thử thách khắc nghiệt của tự nhiên, lịch sử, chống chọi với thú dữ, bão lụt, khí hậu độc hại, đương đầu với hàng loạt nạn ngoại xâm để tồn tại. Có thể nói, vận mệnh lịch sử của dân tộc Việt Nam đã là sợi dây vô hình thắt chặt khối đoàn kết các dân tộc. Các dân tộc muốn tồn tại không thể tự mình biệt lập, sống tách rời các dân tộc khác. Không phải ngẫu nhiên mà đặc trưng nổi bật của đời sống dân cư các dân tộc ở miền núi phía bắc là sự cộng cư, đan xen giữa các tộc người, giữa các cộng đồng dân tộc có tiếng nói, ngôn ngữ, phong tục tập quán khác nhau. Chính sự đan xen cộng cư để cùng nhau sinh tồn đã tạo ra sự cộng cảm, cộng mệnh, từ những ứng xử với điều kiện tự nhiên, xã hội, ứng xử giữa các nhóm cộng đồng, dòng họ, gia đình thuộc các dân tộc khác nhau đã hun đúc nên ý thức chung về một cộng đồng lớn, tạo ra một môi trường hòa đồng tâm lý cộng đồng, hợp lại thành sức mạnh chung toàn dân tộc.
Trong lịch sử hình thành, phát triển của các dân tộc, tộc người trong cộng đồng quốc gia đa dân tộc Việt Nam, thực tế nảy sinh, hiện tồn của những mối liên kết, liên minh giữa các làng, bản của một tộc người, một dân tộc hay giữa các dân tộc khác nhau, cũng mang tính phổ biến ở hầu khắp các vùng, miền trên cả nước. Nhiều khi, những mối liên kết đó vượt ra khỏi địa vực hành chính của vùng, miền hay thậm chí biên giới một quốc gia. Mối đe dọa của tự nhiên khắc nghiệt, của thú dữ, những mối hiểm nguy từ kẻ thù ngoại tộc đã là những lý do vừa như tự nhiên, vừa như bắt buộc để tồn tại, tạo ra các mối liên kết làng bản ở hầu khắp các dân tộc, tộc người. Với dân tộc Việt, trải qua lịch sử nhiều nghìn năm dựng nước, giữ nước, ngay từ thời Hùng Vương cho đến hàng nghìn năm sau này, văn hóa dân gian còn truyền lại dấu vết ngọn nguồn của những mối kết chạ giữa các làng, trải rộng, dài từ vùng đất Nghĩa Lĩnh, lan theo các thềm sông của châu thổ Bắc Bộ, trở thành các liên kết hạt nhân có giá trị kinh tế, quân sự, chính trị, văn hóa. Đó là sự hợp sức chống lại tự nhiên bão lụt khắc nghiệt, đương đầu với mọi cuộc đồng hóa văn hóa, các thế lực xâm lăng để tồn tại, phát triển, góp phần vững chắc bảo vệ, xây dựng cộng đồng quốc gia đa dân tộc trong các giai đoạn lịch sử độc lập, tự chủ sau này. Thực tiễn trải nghiệm qua nhiều nghìn năm đó đã là cội rễ sản sinh ra tâm lý dân tộc chung một cội nguồn; song hành với tâm lý bền chắc đó chính là các hình thức thực hành tín ngưỡng mang màu sắc riêng của từng dân tộc, tộc người.
Soi vào không gian thực hành sinh hoạt tín ngưỡng của từng dân tộc, tộc người không khó để nhận diện sự hiện tồn của một hệ ý thức dân tộc về nguồn cội. Ý thức, tâm lý về một nguồn cội chung lại được hàm chứa trong đó các phương diện, tuy sắc thái, mức độ biểu hiện khác nhau nhưng có chung sự đồng thuận từ tâm thức đến hành vi ứng xử của bất kỳ thành viên cộng đồng nào. Đó là ý thức cội nguồn vốn đã nảy sinh trong nội tại một dân tộc; ý thức cội nguồn vốn được nảy sinh, tồn tại giữa một số dân tộc có cùng ngữ hệ, phong tục tập quán hoặc trong một khu vực tụ cư nào đó; ý thức cội nguồn của một cộng đồng lớn (tương đồng với phạm vi một quốc gia, dân tộc) đa dân tộc Việt Nam. Nghiệm sinh qua thực tiễn tồn tại, phát triển của các dân tộc trong cùng quốc gia nói chung, có thể nhận thấy những ý thức trên đây đã hình thành nên thứ tâm lý dân tộc, bao hàm trong đó tính hướng tâm đan xen, hòa trộn gồm: tính hướng tâm nội bộ dân tộc theo quan hệ dòng máu mà mình mang tộc danh, tính hướng tâm của một nhóm dân tộc trong một không gian sống nhất định theo quan hệ láng giềng trong làm ăn, sinh sống, tính hướng tâm của các dân tộc thành viên đối với toàn thể cộng đồng quốc gia đa dân tộc Việt Nam.
Tìm hiểu kho tàng truyền thuyết dân gian các dân tộc thiểu số cư trú lâu đời tại các tỉnh miền núi phía bắc, dễ nhận ra một ý thức chung là đa số các dân tộc đó đều cho rằng họ có chung một cội nguồn, mặc dù truyền thống văn hóa, cấu trúc tâm lý giữa các dân tộc có sự khác nhau. Tâm thức tưởng nhớ tổ tiên, thủy tổ của một tộc người, một dân tộc đã đồng thời được thể hiện qua những hành vi tín ngưỡng thiêng, thực hành trong các nghi lễ của từng dân tộc, ở những hình thức, cách thức khác nhau, mang màu sắc triết học, tâm linh riêng, tương đồng với các hình thức thực hành saman giáo của nhiều dân tộc trong khu vực, trên thế giới.
Tố chất tâm lý điều hành hoạt động tín ngưỡng, bảo lưu ý thức cội nguồn
Các ý thức cội nguồn của các dân tộc, tộc người, bất luận thuộc phạm vi, cấp độ nào đều cộng hưởng để sinh thành, nuôi dưỡng những tố chất tâm lý dân tộc nói chung trên tiến trình lịch sử. Thứ tố chất tâm lý dân tộc đó được thể hiện cụ thể qua tính cách dân tộc, tinh thần dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà cứ mỗi khi cả cộng đồng quốc gia đa dân tộc đứng trước thử thách của vận mệnh giữ nước, chống sự đe dọa hay xâm lấn của kẻ thù bên ngoài, thì tố chất tâm lý dân tộc lại được trỗi dậy, hình thành một sức mạnh khổng lồ, đủ sức đảm bảo cho sự tồn tại của chính quốc gia, dân tộc trong thời khắc lịch sử gian truân, sống còn đó.
Thực tế hoạt động, sinh hoạt của tín ngưỡng dân gian thông qua các nghi lễ tưởng nhớ tổ tiên ở từng dân tộc hiện vẫn được bảo lưu, duy trì qua các thế hệ. Từng cộng đồng người vẫn có những hoạt động nghi lễ riêng để phụng thờ tổ tiên đã sinh thành ra dân tộc mình. Nhưng song hành với tâm thức truyền thống mang màu sắc đặc trưng văn hóa tộc người đó, các cộng đồng dân tộc thiểu số đã hòa kết với sinh hoạt tín ngưỡng thờ cúng các vua Hùng, vốn là thủy tổ của nhà nước Văn Lang của người Mường, hình thành nên cội rễ cho cộng đồng quốc gia đa dân tộc Việt Nam sau này. Hướng về nguồn cội chung đó, từng thành viên của các tiểu cộng đồng đã thông qua niềm tin vào thực hành tín ngưỡng mà thể hiện tâm lý tự ý thức đối với quốc gia, dân tộc. Do vậy, họ luôn mang trong mình ý thức cội nguồn mãnh liệt, thân thiết. Trong phạm vi hẹp của không gian văn hóa tộc người, đó là ý thức nguồn cội của dân tộc mà họ mang danh, thể hiện qua việc sử dụng tiếng nói, chữ viết, tuân thủ phong tục, tập quán theo bản sắc riêng của dân tộc mình. Ở phạm vi rộng hơn, đó chính là ý thức về cội nguồn của cộng đồng quốc gia đa dân tộc với tâm thức hướng tâm, theo dòng chảy văn hóa truyền thống, tạo cho họ ý thức tự giác cùng tình cảm của cá nhân khi gắn với sự vinh nhục, thịnh suy của dân tộc, quốc gia, tạo ra ý thức đoàn kết, thân thiện, trách nhiệm trước dân tộc. Đỉnh cao của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, của ý thức cội nguồn dân tộc, tâm lý phụng thờ tổ tiên, đạo lý uống nước, nhớ nguồn đã được thể hiện ở không gian thiêng Nghĩa Lĩnh, thờ các vua Hùng. Không phải ngẫu nhiên mà trong tiến trình lịch sử, không gian thiêng này vốn là sở hữu của người Mường, trải qua sóng gió lịch sử, đã trở thành nơi hướng tâm của hầu khắp các tộc người, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam hàng nghìn năm qua.
Tâm lý hướng tâm truyền thống thông qua tín ngưỡng dân gian trong ý thức cội nguồn của các dân tộc ở Việt Nam vốn vẫn được bảo lưu một phần trong sinh hoạt tín ngưỡng dân gian, đã trở thành sức mạnh tinh thần để góp phần cốt lõi giữ vững sự đoàn kết, ổn định khu vực dân tộc. Nó còn mang lại sự phát triển hài hòa, sức mạnh tinh thần trong kinh tế, văn hóa, xã hội tại những không gian tụ cư sinh sống của nhiều dân tộc, góp phần đảm bảo sự ổn định đất nước qua hàng nghìn năm lịch sử.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 392, tháng 2-2017
Tác giả : NGUYỄN THANH HOÀI – BÙI QUANG THANH
Bài viết cùng chủ đề:
Bảo tồn văn hóa si la trong bối cảnh hiện nay
Giữ gìn văn hóa truyền thống tộc người tày ở thái nguyên
Vai trò của người dân trong bảo tồn giá trị quan họ làng vân khám