Hát quan họ là thể loại ca hát dân gian được các nhà nghiên cứu tìm hiểu, bình luận, khảo cứu nhiều nhất, bởi tính đặc sắc trong lề lối diễn xướng và sự phong phú về làn điệu của nó. Cho đến nay, số trang, bài được tuyển chọn của thể loại này có tỷ lệ áp đảo so với các thể loại dân ca khác.
Trước năm 1945, một số tác giả như Chu Ngọc Chi (1928),Việt Sinh (1933), Minh Trúc (1937)… đã có đề cập đến hát quan họ trên các báo Thụy ký, Phong hóa, Trung Bắc tân văn… nhưng chủ yếu chỉ khai thác về mặt phong tục, lề lối sinh hoạt và văn chương trong hát quan họ.
Sau năm 1945 đến nay, công tác sưu tầm nghiên cứu quan họ mới thực sự khởi sắc. Nhiều nhà nghiên cứu đã tổ chức những cuộc điền dã quy mô, dài ngày ở các trọng điểm hát quan họ của Bắc Ninh để thu thập tài liệu. Khối lượng tài liệu sưu tầm được, mặc nhiên, tập trung vào bốn vấn đề: nguồn gốc, sinh hoạt, nghệ thuật và bảo tồn, phát triển.
Nguồn gốc
Xác định nguồn gốc, xuất xứ của một thể loại dân ca không phải là điều dễ. Sự biến thái, chuyển hóa từ thể loại này sang thể loại khác trong quá trình giao thoa, tiếp biến âm nhạc dân tộc dân gian là những vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi phải có sự kết hợp nghiên cứu liên ngành. Trong việc xác định nguồn gốc, tên gọi hát quan họ, tựu trung các bài viết thường chú trọng đến vấn đề thời điểm ra đời của quan họ bằng những cách tiếp cận khác nhau.
Ông Nguyễn Tiến Chiêu sau khi nhận xét, lý giải, dung hòa 6 ức thuyết, tài liệu về nguồn gốc, đã đi đến xác định, quan họ phát sinh từ đời Lý tại Bắc Ninh, thời kỳ mà “mọi hoạt động về văn hóa, xã hội đều phát triển đến tột độ”(1), quan họ thoát thai từ thể hát đúm, do những nghệ sĩ bình dân sáng tạo.
Từ những truyền thuyết trong dân gian, nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc đã nêu ra 4 giả thuyết chính về thời điểm ra đời và nguồn gốc của tên gọi quan họ, đồng thời nhận xét các giả thuyết đó theo quan điểm riêng của mình (2). Tuy nhiên, phương pháp trình bày hơi sa vào kiểu mạn đàm, kể chuyện, khiến người đọc bị nhiễu, không biết đâu là giả thuyết, truyền thuyết dân gian, đâu là ý kiến của tác giả.
Với cách tiếp cận khác, nhạc sĩ Hồng Thao đã lý giải nguồn gốc tên gọi của quan họ bằng phương pháp đối chiếu văn bản. Qua hai văn bản: Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu của Nguyễn Du và một đoạn trong chương I tiểu thuyết Lều chõng của Ngô Tất Tố, tác giả xác định quan họ nguyên “ là danh từ dùng để chỉ những người thuộc họ nhà quan, được trọng vọng, có chữ nghĩa và nhiều thân thế ”(3). Sau đó, có sự chuyển hóa từ khái niệm quan họ xã hội thành khái niệm quan họ nghệ thuật để chỉ một tổ chức, một tập thể sinh hoạt văn nghệ bình dân, một thể loại dân ca là hát quan họ.
Xuất phát từ truyền thuyết Trương Chi, Mỵ Nương trên dòng sông Tiêu Tương, Quang Lộc lại tiếp cận ở góc độ lịch sử và xã hội thông qua tài liệu khảo cổ học, dựng lên một bối cảnh xã hội, kinh tế, văn hóa của vùng Tiên Sơn xưa để giải mã truyền thuyết, xác định nguồn gốc, tên gọi quan họ: “Việc giải thích của dân gian về nguồn gốc quan họ gắn liền với câu chuyện Trương Chi, như thế là có cơ sở. Nó khẳng định quan họ có từ lâu đời ”(4).
Các cách tiếp cận trên không hẳn chỉ là cách thức của các tác giả đã nêu, mà hầu hết các nhà nghiên cứu, khi viết về dân ca quan họ đều có đề cập vấn đề nguồn gốc, xuất xứ. Phương thức lưu giữ của dân ca là truyền khẩu, luôn tồn tại, phát triển bằng các dị bản, vì vậy rất khó tìm thời điểm ra đời của quan họ. Cho nên, kết quả nghiên cứu của các tác giả đều rất phân tán, không thống nhất. Hồng Thao, Nguyễn Đình Phúc cho là cách đây khoảng 500 năm. Lê Thị Nhâm Tuyết xác định nguồn gốc quan họ đầu tiên là hình thức đối đáp giao duyên nam nữ đã có từ hàng nghìn năm trước. Nguyễn Tiến Chiêu xác định có từ đời Lý, và cũng như Nguyễn Đình Phúc, Lê Văn Hảo đều cho quan họ thoát thai từ hát đúm, hoặc như nhận xét của Tú Ngọc “ra đời từ thời kỳ mà các bài ca giao duyên còn đơn giản, mộc mạc dựa trên thơ bốn chữ. Thời kỳ đó quan họ cũng chỉ là một hình thức hát đúm… Lối hát đúm tự do và có tính chất tự phát xưa kia đã nhập vào môi trường mới”(5). Còn theo Toan Ánh, “tục hát quan họ do Hiệu Trung hầu (tên Diễn, làm quan dưới triều vua Lê Cảnh Hưng) đã dựa theo lối hát ví của Kinh Bắc mà đặt ra để mua vui lúc tuổi già..., quan họ là những người có họ hàng với quan hầu…, làng Cầu Lim tức là làng Lũng Giàng có thể là quê tổ của tục hát quan họ”(6).
Phải nói rằng, quan họ nổi trội lên như một hiện tượng văn hóa độc đáo, đặc thù trong hệ thống dân ca vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, nơi gắn liền với thiết chế xóm làng truyền thống và cư dân sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Nếp sống phong lưu đã trở thành tính cách văn hóa trong sinh hoạt quan họ, còn ẩn chứa nhiều điều về nguồn gốc, mà đến nay, chưa hẳn đã được giải thích một cách thỏa đáng.
Lề lối sinh hoạt và nghệ thuật
Với đặc tính truyền khẩu, âm nhạc dân gian, dân ca tồn tại, lưu truyền và phát triển thông qua trình diễn, sự tái tạo bằng trí nhớ trên chính môi trường đặc hữu của nó. Đó là sự phục hiện lại ký ức văn hóa. Vì vậy, yếu tố diễn xướng là không thể tách rời mọi loại thể dân ca. Thông qua trình thức, lề lối, hình thái diễn xướng đặc thù, dân ca mới thực sự bộc lộ hết bản sắc của thể loại.
Đối với dân ca quan họ, điều đó lại càng có ý nghĩa hơn bởi sự độc đáo của lề lối, thủ tục sinh hoạt và sự phong phú về không gian, môi trường diễn xướng, “một trong những hiện tượng độc đáo hiếm có trong di sản văn hóa dân tộc…”(7).
Trong tục lệ sinh hoạt, các bài viết đều tập trung giới thiệu khá kỹ về tục nam nữ kết bạn quan họ. Tục này có nguồn gốc xa xưa trong truyền thống của dân tộc, đã trở thành một môi trường xã hội có tác dụng duy trì và phát triển thể loại dân ca quan họ. “Đặc biệt nhất trong làng quan họ là tục kết bạn”(8), “việc trai gái quan họ kết bạn với nhau bề ngoài giống như một chuyện cưới xin, chỉ khác điều là không lấy nhau thôi”(9), nhưng “quan họ trong một làng không bao giờ kết bạn với nhau. Một tốp nam quan họ ở làng này chỉ kết bạn với tốp nữ quan họ ở làng khác”(10). Đây là một mỹ tục, một hình thái tồn tại rất đặc trưng của quan họ, là tổ chức quan họ, gia đình quan họ xác định một tập thể diễn xướng có quy định thứ bậc đã “chứng tỏ rằng lối ca hát giao duyên này gắn rất chặt với tục kết nghĩa”(11).
Tục kết bạn được thể hiện thông qua việc hát đôi, đôi nam hát đối đáp với đôi nữ theo lối đồng âm. Trong một đôi, cũng phân công người hát chính dẫn giọng và người hát phụ luồn giọng. Vì vậy, “trong quá trình ca hát, thường hình thành các cặp nghệ nhân trong một bọn, những cặp này thích ứng với nhau về mặt kỹ xảo ca hát, mức độ thông thuộc các câu hát”(12).
Môi trường diễn xướng, không gian hát quan họ được các tác giả đề cập đến như một hình thái tồn tại đặc sắc trong văn hóa quan họ. Toan Ánh phân định các cuộc hát vào ba không gian chính, trước tiên, quan trọng nhất của hát quan họ là hát ở hội, mới đến hát tại gia và hát giải. Mỗi cuộc hát đều được quy định theo một lề lối hát riêng, rất chặt chẽ. Lê Văn Hảo đặt những sinh hoạt quan họ trong bối cảnh truyền thống văn hóa dân gian, trong địa văn hóa vùng Bắc Ninh, nơi mà “một năm có thể có đến 80 ngày hội”, dựng lên một bức tranh sống động, đặc sắc, phong phú về môi trường diễn xướng quan họ. Đặc biệt, ông còn nêu thêm một chi tiết mang đậm yếu tố phồn thực, một dấu vết tín ngưỡng đặc trưng trong văn hóa của cư dân trồng lúa. Đó là tục nam nữ du ca tại gia, được coi là tục lệ làng mà năm nào làng không cử hành trong dịp lễ vào đám hai tục nam nữ du ca tại đình và nam nữ du ca tại gia, thì trong làng xảy ra nhiều sự không may như người vật bất an, mùa màng hư hỏng (13).
Dân ca quan họ phần lớn phổ biến ở dạng hát hơn là dạng ngâm, mang nhiều đặc tính của ca khúc hơn là làn điệu. Trong hệ thống các giọng của quan họ, đối giọng được xem là yêu cầu chủ yếu trong lề lối hát. Các nhà nghiên cứu đều thừa nhận sự phong phú, đa dạng trong giai điệu, trong hệ thống giọng của quan họ là do tác động của quy luật đối giọng trong diễn xướng. Tuy nhiên, vấn đề phân loại, tên gọi của các giọng vẫn chưa thống nhất. Nguyễn Đình Phúc: giọng hừ la, giọng ngay, giọng tình tang, giọng đường bạn và giọng lên núi (lên nương); Tú Ngọc: hừ là, la rằng (hoặc tôi rằng), ban lan, cây gạo…; Trần Văn Khê là: giọng là giằng (hừ la), tình tang, lên núi, xuống sông…; Hồng Thao: hừ la, la rằng, đương bạn, tình tang, cây gạo, cái hời cái ả… Trong trình tự, lề lối của một cuộc hát, đa số thống nhất là: giọng lề lối, giọng sổng, giọng vặt và cuối cùng là hát giã.
Vấn đề thang âm và điệu thức, Hồng Thao quan niệm là một trong những yếu tố cơ bản hàng đầu tạo thành tính chất điêu luyện, hoàn chỉnh trong dân ca quan họ. Ông kết luận dân ca quan họ đã ứng dụng chủ yếu nhất và phổ biến nhất là hai thang âm năm cung kiểu IV và V (tương ứng với điệu thức mang tên chủy và vũ trong âm nhạc Trung Hoa) cùng với những hình thức giao thoa của chúng.
Cũng bàn về vấn đề thang âm, Tú Ngọc nhận xét: “Giai điệu trong nhiều bài hát quan họ được xây dựng trên các loại thang âm 5 cung không có bán âm. Có bài chỉ một loại thang âm nhưng có bài lại dựa trên một vài thang âm theo lối chuyển dịch từ dạng thang âm này sang dạng thang âm khác, mà độc đáo nhất trong âm nhạc quan họ, là sự chuyển dịch thang âm xuất hiện vào lúc gần cuối, gọi là câu đổ”. Ông cũng cho biết, thỉnh thoảng có những bài dùng thang âm có bán âm, và cũng chỉ được dùng trong hai trường hợp là ở những cụm âm luyến lên hoặc xuống và ở những chổ kết câu, kết đoạn…
Nhạc sĩ Văn Cao chỉ đề cập riêng đến vấn đề đặc điểm âm nhạc trong đường nét giai điệu dân ca quan họ. Ông đã nêu ra 2 âm hình điển hình được sử dụng thường xuyên trong các bài hát (mà ông ký hiệu là âm hình a và b) “Trong quan họ, âm hình a thường dùng để mở câu và phát triển câu nhạc, âm hình b khép lại và dùng để phát triển”(14).
Bên cạnh vấn đề nghiên cứu về giọng, thang âm, điệu thức, các tác giả còn quan tâm đến nhiều yếu tố khác. Nhạc sĩ Đỗ Nhuận cho rằng yếu tố quan trọng trong nhạc quan họ là thơ “nhạc quan họ đẻ ra từ lời thơ quan họ”(15). Theo nhận xét của Tú Ngọc, khi nói đến đặc điểm của âm nhạc trong quan họ, trước hết cần nói đến tư chất của giai điệu và phương thức trình bày giai điệu đó, “giai điệu quan họ thường được cấu trúc bằng những motip lèo lượn (những âm hình thêu)… những giai điệu lèo lượn thường lại kết hợp với nhịp độ chậm nên rất thích hợp với nội dung của cảm xúc trữ tình sâu lắng và tinh tế cung điệu tình cảm chủ đạo trong quan họ”.
Một đặc điểm phổ biến trong âm nhạc dân gian Việt Nam nói chung và quan họ Bắc Ninh nói riêng là dân ca, khi diễn xướng không nhất thiết phải có nhạc cụ, nhất là dân ca người Việt. Hát quan họ, nếu không có nhạc cụ đệm, thì cũng được xem như một đặc tính vốn có của thể loại. Đỗ Nhuận cho rằng “không phải do trình độ quan họ không biết dùng sáo nhị, không phải vùng quan họ không có người biết đàn, sáo, trống, phách. Đây là có dụng ý rồi: thưởng thức thơ – nhạc tới mức cao, thuần túy, không muốn nghe đàn. Bê đàn vào có thể làm loãng đi những cái ngân nga sâu kín của lời thơ tỏa ra”.
Bảo tồn, phát triển
Nghiên cứu tự thân đã bao hàm cả ý nghĩa bảo tồn. Ở đây, không nêu ra những cách thức, phương pháp bảo tồn và phát triển dân ca quan họ đã được đề xuất trong các bài nghiên cứu, mà chỉ nhặt ra một số ý kiến có tính chất phê phán, tán đồng những khuynh hướng, hoặc những ý tưởng có liên quan đến vấn đề gìn giữ và phát triển quan họ.
Không chỉ trong dân ca quan họ, mà cả trong âm nhạc dân tộc cổ truyền nói chung, vấn đề bảo tồn, phát triển, nhất là việc phát triển nâng cao, đã tồn tại những quan điểm khác nhau, nếu không muốn nói là đối chọi nhau. Cố nhiên, những quan điểm này, thái độ đối xử với dân ca nhạc cổ không thoát khỏi sự chi phối theo từng giai đoạn xã hội nhất định, mà cụ thể, là biến chuyển theo những chủ trương, đường lối trong từng thời kỳ khác nhau.
Từ năm 1956, nhạc sĩ Nguyễn Đình Tấn đã nêu lên những nguyên nhân khác nhau, được xem như là động lực dẫn đến sự phát triển dân ca quan họ. Trong đó, dị bản là một yếu tố có tính chất quyết định. Yêu vốn cổ nhưng không tòng cổ một cách thiếu phê bình, việc phát triển, nâng cao sẽ làm cho quan họ phong phú và thích hợp với nhịp sống hiện đại. Theo ông, “nâng cao dân ca, là sửa chữa nhạc và lời một số bài cho thích hợp, như vậy mới làm sống lại một cách thích hợp với đòi hỏi của quần chúng…, làm như vậy cũng như người hát quan họ sáng tạo mà thôi, chỉ cần đi sát quần chúng, luyện tình cảm mình là tình cảm của nhân dân, học tập thấm nhiều dân ca lấy đó kết hợp khoa học, sáng tạo để nâng cao”(16). Quan điểm đó, những năm sau này ít được ủng hộ, thậm chí phủ nhận sự xâm phạm vốn cổ: “Cũng như với dân ca nói chung, thái độ của chúng ta là không nên làm phương hại tới bản chất, tính cách của nó. Tiếp thu phát triển quan họ mà đem kịch tính hóa nó thành nhạc sân khấu, làm lời mới dù có nội dung thúc đẩy sản xuất nhưng ít chất thơ, mà chi chít chữ, bỏ đi cái thoáng chữ của quan họ, gán hồ đồ cho nó là lề mề… là đánh mất cái tinh tế của nó, làm thô kệch quan họ… Tôi không muốn đặt lời mới vào điệu quan họ gốc”(17). Hồng Thao lại cho rằng trong quan họ xuất hiện những bài quan họ rởm như bài Bèo dạt mây trôi, Tình bằng có cái trống cơm, với tính chất nội dung nghệ thuật rõ ràng khác hẳn những bài quan họ đích thực. Trần Minh tỏ ra tinh tế khi phê phán dị bản của hai bài này mà ông gọi là cải biên, đã làm mất tính chất quan họ, là dung tục, theo thị hiếu tiểu tư sản…(18). Nhưng ông quên rằng, dị bản là đặc tố của dân ca, vì vậy không có cái gọi là bản gốc trong thành phần âm nhạc được lưu truyền bằng phương thức truyền khẩu này. Nhạc sĩ Nguyễn Viêm cũng chỉ đồng ý với tác giả Trần Minh việc thay đổi lời ca ở bản cải biên là chưa thật quan họ lắm, “chưa nắm được sinh hoạt văn hóa quan họ”.
Trong lĩnh vực sáng tác mới, xuất hiện nhiều ca khúc dựa trên chất liệu quan họ, đã đi vào đời sống riêng trong lòng công chúng, kể cả công chúng trên quê hương quan họ. Nhưng theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, thì một số tác phẩm không mang được tính quan họ, nó được phát triển dựa trên âm hưởng của các làn điệu dân ca khác, đã bị hiểu lầm là dân ca quan họ. Cụ thể như bài Những cô gái quan họ của Phó Đức Phương, thiên về mang tính chèo, bài Làng quan họ quê tôi của Nguyễn Trọng Tạo và Nguyễn Phan Hách, được phát triển từ âm hưởng của bài Bèo dạt mây trôi, vốn bị hiểu sai là dân ca quan họ…
Sửa chữa, cải biên dân ca để gọi là nâng cao như ý kiến của Nguyễn Đình Tấn (19), hoặc nệ cổ đến mức khắt khe với các bài hát mới thuộc lĩnh vực tân nhạc, hết thảy đều là thái độ cực đoan trong nghiên cứu phê bình âm nhạc dân gian.
Năm 1976, trên tập san Khoa học Xã hội của Việt kiều ở Pháp, tác giả Trần Văn Khê đã nêu ra 6 ưu điểm trong công tác sưu tầm, nghiên cứu và cho là “đáng làm gương cho các công tác nghiên cứu âm nhạc dân tộc trong nước ta và cho cả các nước khác về mặt phương hướng và đường lối, nhất là cách nghiên cứu tập thể, tổng hợp và toàn diện rất đúng với phương pháp nghiên cứu của môn dân tộc nhạc học ngày nay”(20). Đồng thời, ông cũng nêu lên 6 nhược điểm, gọi là vài khó khăn, do điều kiện đất nước trong thời chiến tranh… Mặc dù là nhà nghiên cứu người Việt ở nước ngoài, trong đánh giá không khỏi có phần chủ quan, nhưng ông đã nhận xét đúng với thực tế nghiên cứu dân ca quan họ từ trước đến thời bấy giờ (giai đoạn từ 1956 đến 1976).
Vấn đề này, đến năm 1992, trên tạp chí Văn nghệ Hà Bắc (21), Hồng Thao, với tư cách người trong cuộc, đã tổng kết bình luận một cách chi tiết và đầy đủ hơn. Thậm chí ông còn vạch ra một số lệch lạc trong quan họ, đó là sự xuống cấp của đoàn dân ca quan họ Hà Bắc (vào những năm 80), không phân biệt rõ ràng các bài dân ca quan họ, dẫn đến việc trình bày nhập nhằng, lộn xộn…
Để kết thúc, chúng tôi xin trích dẫn lời của Lê Danh Khiêm: “Sáng tác các bài quan họ mới vốn đã được bàn luận từ lâu và ở nhiều loại hình diễn đàn khác nhau. Lý thuyết, tranh luận, thử nghiệm, giám định… đều không ít. Nhưng tới nay, ánh sáng về một giải pháp mang tính thực tiễn cho vấn đề này hầu như vẫn chưa mấy sáng tỏ”(22).
_______________
1. Nguyễn Tiến Chiêu, Tìm hiểu nguồn gốc quan họ Bắc Ninh, Tạp chí Bách khoa, số 65 (9)-1959.
2. Nguyễn Đình Phúc, Để góp phần vào nghiên cứu quan họ, Tập san Văn hóa, số 11-1961.
3. Hồng Thao, Quan họ tên gọi và nguồn gốc, Tạp chí Văn nghệ Hà Bắc, số 2-1990.
4. Quang Lộc, Thử tìm hiểu nguồn gốc dân ca quan họ, Hà Bắc, số 9-1978.
5, 7, 9, 11, 12. Tú Ngọc, Những bài hát giao duyên, Tạp chí Âm nhạc, số 4-1982.
6, 8. Toan Ánh, Hội Lim với tục hát quan họ…
10. Hồng Thao, Quan họ lề lối sinh hoạt, Tạp chí Văn nghệ Hà Bắc, số 1-1991.
13. Lê Văn Hảo, Vài nét về sinh hoạt quan họ trong truyền thống văn hóa dân gian, Tạp chí Đại học, số 33-1963.
14. Văn Cao, Con sáo sang sông theo phong cách quan họ Bắc Ninh, Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, số 3-1985.
15, 17. Đỗ Nhuận, Người sáng tác âm nhạc đối với quan họ, Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, số 10, 11, 12-1976.
16, 19. Nguyễn Đình Tấn, Nâng cao và phát triển quan họ, Tập san Âm nhạc, số 10, 11-1956.
18. Trần Minh, Về bài dân ca Người ơi người ở đừng về, Tạp chí Âm nhạc, số 1-1977.
20. Trần Văn Khê, Sau khi thăm quê hương quan họ, Tập san Khoa học Xã hội, số 1 (11)-1976.
21. Hồng Thao, Quan họ, công việc giữ gìn và phát triển, Tạp chí Văn nghệ Hà Bắc, số 3-1992.
22. Lê Danh Khiêm, Hiện tượng sáng tác quan họ, miêu tả và suy nghĩ, Tạp chí Văn nghệ Hà Bắc, số Xuân Giáp Tuất, 1994.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 321, tháng 3-2011
Tác giả : Vĩnh Phúc
Bài viết cùng chủ đề:
Festival Huế – Nét đẹp văn hóa dân tộc Miền Trung Việt Nam
Nhận diện âm điệu bài chòi (p2)
Những giá trị trong nội dung hát ghẹo