Trần lương – thời cuộc


Anh là một trong số rất ít họa sĩ kiên định đi theo lựa chọn riêng, ngay khi mà làn sóng thị trường đang khiến giới họa sĩ và dường như cả Hà Nội ngây ngất. Như thể anh tự mở ra cho mình một thời cuộc mới tuy nó chưa hẳn định hình. Trần Lương, người ta có biết nhiều nhất anh là một họa sĩ trong nhóm 5 người (gang of five) nổi danh của mỹ thuật Việt Nam thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Còn nghệ thuật đương đại lúc đó chưa là một giá trị đáng kể trong hệ thống giá trị của đời sống mỹ thuật. Nó thậm chí còn trở nên trái tai, một thứ gì đó vướng víu mà đôi khi, người ta không muốn biết sự vướng víu đó hiện tồn như thế nào…

Mọi thứ được bắt đầu với vẻn vẹn một vài nhân vật cốt yếu và Trần Lương, không nghi ngờ gì nữa, chính là một phần rất quan trọng. Người thực hành nghệ thuật là một cách gọi giản dị nhưng chủ động, bộc lộ ý thức về con người nghệ sĩ đương đại đối với tất cả mọi phương diện cuộc sống xung quanh mà họ khó có khả năng chối bỏ.

Có thể nói rằng, những năm tháng đầu lăn lộn với nghệ thuật mới cũng chính là quá trình anh trải nghiệm của việc đi từ họa sĩ đến người thực hành nghệ thuật. Và cũng nên hiểu rằng, từ họa sĩ kể trên phải được hiểu theo ngữ cảnh địa phương và thời gian xác định mà chúng ta nói tới. Ngay sau đó, với những hoạt động không ngừng nghỉ, một cách rất tự nhiên, Trần Lương đã thực sự trở thành nhà hoạt động nghệ thuật. Sự đa dạng và năng động gắn liền với hình ảnh của anh. Vào cuối những năm 90 TK XX, nghệ thuật đương đại ở Hà Nội đã được đa dạng hóa cùng những hoạt động có tính chất cộng đồng. Khi đó các nghệ sĩ bắt đầu để ý ngày một nhiều đến sự phát triển mạng lưới hơn là việc chỉ đơn giản trình làng các sáng tác. Với một nỗ lực lớn, Trần Lương và các cộng sự đã đi được một bước dài khi thực hiện nhiều chuyến hợp tác nghệ thuật với quốc tế. Giai đoạn mò mẫm và ủ dột của nghệ thuật đương đại Việt Nam đã tạm ở sau lưng. Những lịch trình dày đặc và vô số công việc, dự án khiến cho việc khảo sát các tác phẩm của anh thực sự là một trở ngại.

Mùa hè 2008, tại sảnh bảo tàng nghệ thuật Singapore (Singapore Art Museum- SAM), lần thứ bảy, Trần Lương tái diễn với chiếc khăn đỏ trong series tác phẩm nghệ thuật trình diễn của mình. Sáu (6) lần trước đó đã từng xảy ra ở Bắc Kinh, Hàng Châu, Seoul, Thượng Hải, Indonesia và TP.HCM.

Mở đầu tác phẩm, anh tung tăng với chiếc khăn đỏ bằng vẻ khoan khoái kéo dài khắp hành lang của SAM. Và người xem đột nhiên phải chú ý vào hành vi của người đàn ông này khi thấy bắt đầu có những biểu hiện ức chế khi giật chiếc khăn đỏ phần phật một cách dữ dội. Sau đó là một vài lời bộc bạch cho khán giả về ký ức của anh với chiếc khăn đỏ. Có những thứ dội về rung động như là máu thịt trộn lẫn cảm giác khó tả của lòng tự hào, sự thiêng liêng và ngờ vực… những thứ thật khó để trở thành câu chuyện có thể kể lể. Và anh quyết định sẽ trình diễn như thế nào đó với chiếc khăn đỏ, khi một hôm chợt bắt gặp cậu con trai mình cũng được trở thành đội viên và cũng với chiếc khăn quàng đỏ thắm. Nhưng hình như với thế hệ của cậu con trai, chiếc khăn đỏ chỉ mang ý nghĩa màu sắc vật lý mà thôi? Trở lại với không khí ở SAM lúc đó, Trần Lương mời mọi người dùng chiếc khăn đỏ giật thật mạnh vào tấm lưng trần đến khi tứa máu và để lại những vết lằn rát đỏ. Kết thúc là một nghi thức cúi chào trang trọng của tác giả với chiếc khăn đỏ được gấp ngay ngắn. Có rất nhiều người hăng máu tương tác với anh nhưng số người từ chối vì không dám tham gia trong tác phẩm này có lẽ còn nhiều hơn. Không khí căng thẳng và nín lặng kéo dài, những khuôn mặt bối rối và biến sắc của một số khán giả. Tất cả dịu đi khi bắt đầu có những tác phẩm và chương trình tiếp nối.

Trần Lương khá quen thuộc với những tác phẩm toát lên vị mặn của mồ hôi và những cảm xúc máu thịt. Nó luôn bộc lộ một đời sống nếm trải, ăn chịu một cách không e ngại. Nhưng ở những tác phẩm luôn có được cách lựa rất chừng mực và cân bằng trong thao tác và hành vi. Ở đây, ứng xử nghệ thuật mang tinh thần lễ độ và trí thức.

Ngụy trang được thực hiện năm 2008 là một sắp đặt 70 bức giấy dó khổ lớn tạo nên một con đường chạy dài. Mỗi bức giấy dó được anh tỉ mỉ vẽ bằng mực nho, và coi đó như những minh họa tự sự. Trên bề mặt giấy, Trần Lương thực hiện hàng loạt họa tiết kiểu rằn ri trên một số mẫu quân phục. Sự ráp nối con đường gồm 70 bức giấy dó lốm đốm, riêng lẻ thì có thể chỉ gợi lên cảm xúc trừu tượng hoặc ký hiệu bất kỳ. Nhưng quá trình của nó như là sự lân la của những mẩu ký ức để xâu chuỗi đến những câu chuyện và sự kiện xung quanh cuộc sống. Anh cũng thấy con đường đó là một hành trình tìm kiếm để xới tung ra những điều nằm sâu bởi những lý do nào đó. Những thứ bị che phủ không phải chỉ bởi bụi, những thứ đó cũng có thể coi là sự ngụy trang dẫn đến sự mông lung. Một thứ nhiễu điều có sức bao phủ lên trên con người…

Tại Daodao Live Art Festival 2007, cả giới nghệ sĩ quốc tế mà trong đó hầu hết là những nhân vật có hạng về nghệ thuật trình diễn dành cho anh không ít sự kiêng nể khi tận mắt chứng kiến việc Trần Lương thực hiện tác phẩm Đánh răng ngay tại quảng trường Thiên An Môn. Trước đó, ngay cả một số nghệ sĩ Trung Quốc đã không thể thực hiện được tác phẩm của mình bởi sự khắt khe của lực lượng bảo vệ và an ninh tại quảng trường. Quảng trường Thiên An Môn là một địa điểm không được chỉ định chính thức trong lịch trình hoạt động của đoàn nghệ sĩ quốc tế khi đó. Nhà tổ chức và curator ra thông báo các nghệ sĩ có quyền tùy ý (nếu có thể) ứng biến làm tác phẩm với không gian phi điều kiện này. Và cũng không quên khuyến cáo đây là địa điểm mà khi làm, cá nhân nghệ sĩ phải chịu hoàn toàn trách nghiệm vì đó là nơi không được đảm bảo bất cứ một ưu tiên nào cho nghệ sĩ và nghệ thuật. Trần Lương đã không bỏ qua cơ hội quý giá được làm nghệ thuật trình diễn tại một quảng trường danh tiếng và hết sức đặc biệt này. Ban đầu, anh cũng bị ngợp bởi cảm giác khó tả không thể cưỡng lại khi đến đây. Một cảm giác bồn chồn, lâng lâng của cả quá khứ và hiện tại, có thể nó lôi cuốn tò mò như cảm giác bị bóng đè? Anh đánh răng và chắc hẳn đã luôn ý thức có một chân dung Mao khổng lồ phía sau… Mùi thơm bạc hà của kem đánh răng cùng bọt trắng xóa nhoe nhoét quanh miệng nghệ sĩ trước sự hiếu kỳ của những người tụ tập tại quảng trường. Thật khó có một bình luận nào trước một sự thể oái oăm và trái khoáy đến vậy. Ở đây, tính ám thị là cái chủ động đưa đến cho người ta hơn là trông chờ vào một thông điệp và nội dung nào. Không ít nghệ sĩ và sinh viên nghệ thuật mừng rỡ và tán thưởng Trần Lương khi anh được trở về bình an vô sự sau vài tiếng giải thích với lực lượng bảo vệ an ninh.

Tác phẩm Lần mò quá khứ trong trương trình lưu trú nghệ thuật (residence) tại Umbria Italia (Civitella Ranieri Center), 2002, Trần Lương đào một cái ao nhỏ trên núi rồi thả xuống mặt nước đầy bèo tấm. Anh quẳng xuống ao thập cẩm những đồ vật mà mình thu thập được mang từ Việt Nam. Anh nhắm mắt nhưng mí mắt lúc đó lại được vẽ đè lên hình ảnh đôi mắt luôn mở trừng trừng và bắt đầu quá trình ngụp lặn mò mẫm dưới ao kiếm các đồ vật. Sâu dưới mặt ao là lớp bùn phủ lên những đồ vật nằm im thin thít, bắt gặp đôi tay sờ soạng, dờ dẫm và đôi lúc lại móc lên được một cái gì đó quăng lên bờ. Khi thì là cái bát sắt tráng men, lúc là khúc xương, đèn pin, rồi lại đến một phần quả bom bi, cả cái đầu tượng tiên đồng ngọc nữ… Gần một tiếng đồng hồ trôi qua, trên bờ đã lủng củng đủ các thứ. Nghệ sĩ lóp ngóp ngoi lên, một bộ dạng nhếch nhác ướt như chuột lột toàn là bùn với bèo dính trên người. Trò chơi “trục vớt” đã dừng lại mặc dù không biết chắc dưới kia còn sót thứ gì của quá khứ… Tác phẩm cũng “ướt sũng” như chính anh lúc trình diễn vậy. Nó dậy nên vị bùi ngùi thật khó tả. Hình dung nếu có thể, nó giống như một đoạn trong bộ phim tài liệu nào đó bị bỏ rơi, bị cắt đứt với không gian và thời gian.

Nghệ thuật của Trần Lương luôn được trong giới xếp vào hàng có sự phản kháng và biểu đạt mạnh mẽ. Nhưng những tính chất đó cũng được nghệ sĩ này diễn xướng và bộc lộ rất đa dạng. Nó không nhất thiết là thứ hầm hố lên gân lên cốt. Dòng chảy mà nó phải chảy không ngông cuồng mà luôn có sự liền mạch, thông suốt, chín chắn.

Một tác phẩm rất lạ và đặc sắc được anh thực hiện tại Bắc Kinh năm 2007. Có thể nói rằng đây là một nụ cười hóm hỉnh ít thấy trong nghệ thuật của anh. Nói đúng hơn, là một sự việc kỳ cục, gây cảm giác vừa tức vừa buồn cười. Trong khán phòng sang trọng của sân khấu kịch nghệ, những hàng ghế chật khán giả hướng lên màn hình video được đặt trên sân khấu. Nó chăm chăm chiếu những cảnh ăn uống nhồm nhoàm rất đa dạng, từ những xuất ăn lam lũ của người lao động, đến những bữa tiệc sang trọng. Nhưng nói chung là đặc tả mọi cái mồm đang ăn mọi thứ… Và ngay bên dưới màn hình, Trần Lương – tác giả của video trên – đang lúi húi ngồi quay lưng lại khán giả. Anh chùm một thứ vải voan trong mờ được thêu hoa văn nhỏ cực kỳ tinh xảo và đẹp mắt rồi cứ lục đục làm cái gì đó. Chỉ một lúc sau, khán phòng bắt đầu thấy xì xào bởi một mùi thơm song rất khó chịu trong hoàn cảnh này. Tất cả những thứ đó phát ra từ hướng nghệ sĩ trình diễn trên sân khấu. Người ta thấy có tiếng xèo xèo dầu mỡ, om khói bốc lên nghi ngút, mùi thơm sực nức cả không gian ngột ngạt. Một sự chế biến nghệ thuật, một sự xào nấu nghệ thuật, một sự trình diễn ngang với tra tấn? Trần Lương đang phi tỏi trong một cái chảo chơi đồ hàng với một ngọn nến ngay trong khán phòng. Phía dưới, một vài tiếng gắt gỏng khó tính, đôi khi cả những câu chửi vùng vằng cùng với những tiếng vỗ tay và cười khoái trí, tất cả được quyện lẫn với mùi thơm không thể chịu nổi của tỏi phi trong một không gian quá nghệ thuật. “Thật hết chỗ nói với nghệ thuật”- nếu có một câu như vậy từ dư luận trên các bài phê bình sau đó, chắc hẳn người vui mừng sẽ là Trần Lương. Tác phẩm này là một sự cười, và hình dung cái mồm cười này chắc cũng phải méo mó thế nào đó thật khó coi, giống như cái mùi thơm khi đó thật khó ngửi. Người ta có thể nói rằng đây là một tác phẩm có vẻ cực kỳ nhố nhăng nhưng cũng là một tác phẩm cực kỳ thú vị và đầy giễu nhại. Còn nữa, không biết tác giả của nó có lên kế hoạch trộn hỗn hợp hương thơm kia với những thứ nước hoa đắt tiền của bao quý ông quý bà hiện diện trong khán phòng…

Tác phẩm Trồng lúa trong nhà như là một trong những “bức tranh siêu thực” được anh vẽ nhiều lần. Nó từng được anh thực hiện ở Hà Nội, Liverpool, Singapore… Không ít ý kiến cho rằng đây là tác phẩm mang màu sắc chủ nghĩa dân tộc. Đơn giản nhất trong đó cho rằng, Trần Lương là người yêu quê hương, đất nước. Trĩu nặng trong bông lúa hạt gạo là những gì mồ hôi nước mắt, một nắng hai sương, tần tảo sớm hôm. Cũng có thể coi đó như sự chia sẻ hình ảnh văn hóa và những thiên truyện mang tính biểu tượng Việt Nam, với nghệ thuật thị giác, sự liên hệ đương nhiên đến sau ánh nhìn nghệ thuật. Sự biểu cảm và ám thị là một quyền năng rất cũ những không gì thay thế nổi. Và, trong những căn phòng có điều kiện, những khóm mạ nhen nhóm lên một màu xanh mướt bất chấp sự lạ lẫm so với khí hậu và môi trường truyền thống quen thuộc của chúng. Ở Liverpool, những bông lúa mọc lên cùng với hệ thống máy sưởi tối tân trong phòng triển lãm. Tại Singapore, không gian gallery là nơi sự sống từng ngày của cây lúa lan tỏa cùng không khí máy lạnh. Sự phi lý không làm cho cây lúa chết quá sớm. Từng khóm, từng khóm vẫn đủ sức gây nên một cảnh tượng kỳ lạ. Trên những vách tường, bệ cửa, ô thoáng… lúa vẫn mọc xanh rì đẩy người xem như đứng giữa một bức tranh siêu thực.

Ngược thời gian về năm 2001, khi đó Trần Lương chủ trì một chương trình không thể không đề cập tới. Với chức danh giám đốc nghệ thuật của trung tâm mỹ thuật đương đại, anh tổ chức đoàn gồm 11 họa sĩ đi thực tế theo một cách khác hẳn với hoạt động hội trại sáng tác. Nó giống một cuộc điền dã và thâm nhập thực tế xã hội. Đoàn đến mỏ than Mạo Khê, nơi có hàng nghìn công nhân khai thác ngày đêm sâu dưới lòng đất. Anh và các nghệ sĩ ý thức việc lên đây để ăn,ngủ,nghỉ,lao động, sinh hoạt ngoại khóa… tất tần tật phải sống như họ. Đến những ngày cuối cùng, mọi người có thể làm tác phẩm tùy ý, không bắt buộc. Với cách thức như vậy, ai cũng đầy cảm xúc và họ đã để lại cho vùng mỏ những tác phẩm chân thành. Trần Lương cũng như mọi người đều cảm nhận được sự gian lao và khắc nhiệt đến tột độ của người lao động ở mỏ than. Hơn nữa, anh bị ấn tượng bởi màu đen thật lạ, màu đen không gì tả nổi ở nơi đây. Một màu đen đến phát rức như khắc thẳng vào tâm trí. Tác phẩm nghệ thuật trình diễn Người cơm của anh ra đời cũng từ đó. Đặt cơm trắng ở nhà bếp của công trường từ tờ mờ sáng, Trần Lương đứng như trời trồng còn các cộng sự của anh thì ra sức đắp cơm lên người anh. Nó là một tượng đài cơm bằng xương bằng thịt theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Một sự tương phản và những cảm giác xúc động. Giữa một vùng đen mênh mông, có một đốm trắng tinh. Giữa một thứ đen nhánh, bóng, sắc là một sự trắng trong hôi hổi, dẻo thơm. Đó là những xử lý thị giác rất tinh tế tuy giản dị. Người cơm đứng đó, nắng lên đến đỉnh và lớp cơm trắng bắt đầu khô dóc rồi từ từ bong ra từng mảng…

 Quay về những giai đoạn cuối những năm 90 của thế kỷ trước, những tác phẩm như series Chảy, Khởi thủy, Con rồng tân thời,… là những thực nghiệm ban đầu của quá trình đi từ hội họa sang với nghệ thuật thị giác nói chung. Ở đó, thường có sự dàn dựng và kết hợp giữa nhiều chất liệu cũng như những đại lượng thị giác trong nhất thể; tính chất thẩm mỹ và cảm xúc như là mạch nối giữa ý niệm và cơ cấu vật chất tác phẩm.

 Những khảo cứu sơ bộ trên nằm trong số hệ thống tác phẩm cũng như rất nhiều chương trình thực hành nghệ thuật của Trần Lương. Ở mọi thời cuộc, sự vững vàng về nghề nghiệp cũng như học thuật luôn khẳng định địa vị tồn tại của anh. Nhìn lại gần hai thập kỷ của nghệ thuật đương đại ở đây, người ta thật không có nhiều cơ hội nhận diện Trần Lương trên khía cạnh nghệ sĩ một cách tường tận. Với hàm lượng thông tin nhất định từ giới truyền thông, người ta chỉ dễ dàng nhận ra anh là một nhà hoạt động tổ chức nghệ thuật và có mặt trong mọi diễn biến, sự kiện quan trọngcủa nghệ thuật đương đại. Bản thân anh cũng không coi đó là một điều đáng bận tâm, vì quan điểm cá nhân của Trần Lương là mọi hoạt động nghệ thuật, chứ không phải làm nghệ thuật với chức danh gì. Nhưng chắc chắn là mọi hoạt động phải chất lượng và giúp đời sống văn hóa nghệ thuật phát triển.

 

Một đối thoại bên lề

 

 

PV: Anh có thể chia sẻ về quá trình chuyển mình từ mỹ thuật (fine arts) sang nghệ thuật đương đại (contemporary art), liệu có một bước ngoặt nào?

 

T.L: Cũng thật khó để nói về một bước ngoặt nào. Nhưng quá trình đó rõ ràng có nhiều lý do, từ phía cá nhân đời sống hội họa của tôi lúc đó, cũng như là những yếu tố xã hội tác động đến.

Thẳng thắn mà nói rằng, hội họa lúc đó cũng cho tôi nhiều thứ. Tranh bán khá tốt và có được tiếng tăm trong giới cũng như sự quan tâm của nhiều đơn vị sưu tập nước ngoài. Nhưng chớm ở thời thị trường mở cửa đó, tôi cũng bắt đầu nhận ra những “bệnh tật” của hội họa Việt Nam trước cơn dịch thị trường. Năng lực cho hội họa thì vẫn còn nhưng có gì đó gần với sự mất hứng với thời cuộc. Cộng thêm những chuyến đi ra tìm hiểu nghệ thuật trên thế giới cũng khiến tôi phải cẩn trọng xem lại về cái gọi là sáng tạo và thành công mà thế hệ chúng tôi đang làm. Rồi xã hội mà chúng ta đang sống có một tốc độ và sức bùng nổ khác xa rất nhiều với quá khứ. Nó có một đòi hỏi đối thoại tương ứng như thế nào đó với nghệ sĩ và nghệ thuật của họ. Nó mở ra một con đường mới có thêm những cách thức biểu hiện nghệ thuật khác nhau. Tôi đã tự hỏi vậy tại sao không thử phiêu lưu?

 

PV: Một vấn đề mà có lần anh đã trình bày tại hội thảo, mỹ thuật của ta không có hậu hiện đại. Việc nhảy cóc từ hiện đại đến đến đương đại thực sự có vấn đề gì không?

 

T.L: Cá nhân tôi thấy đó không có vấn đề gì cả khi mà chúng ta nền nhìn thực tế theo ngữ cảnh địa phương và hoàn cảnh khu vực cụ thể. Đó chỉ tùy vào từng cơ địa và điều kiện vùng miền mà thôi. Với trường hợp của chúng ta, việc đi thẳng từ hiện đại đến đương đại, tôi thấy là một quá trình khá là tự nhiên. Nếu cứ khăng khăng phải nặn ra một hậu hiện đại nào đó thì mới e là có sự gượng ép, không nhất thiết phải như vậy. Điều quan trọng, quá trình đó vẫn là một quá trình có ý thức

 

PV: Sự khác biệt giữa những lứa nghệ sĩ làm nghệ thuật đương đại ở ta?

 

T.L: Hình như nó cũng không có nhiều khác biệt đáng kể, ý tôi nói đến sự thay đổi hay khác biệt trong luồng tác phẩm là không nhiều dù chất lượng có thể khác biệt tí chút và hình thức cũng ít nhiều có sự thay đổi. Nhưng đại thể, nó chưa đủ để thấy được từng lát riêng biệt và từng thời kỳ một cách rõ ràng. Cũng một phần lý do là, hầu như các lứa đều có nhiều dịp làm việc sát cánh cùng nhau, cũng như môi trường làm việc tương đồng.

Lứa đầu, hầu hết những nghệ sĩ sinh trước năm 70-71, tác phẩm đều có sự xuyên suốt về thân phận con người nối với lịch sử và xã hội mạnh mẽ và sâu sắc. Về thao tác và vật chất, thường dính dáng đến thủ công cũng như sắp đặt những vật thể thực

Những lứa sau, tác phẩm không thấy rõ được sự liên hệ với những biến cố lịch sự xã hội và không mang nhiều tính tư tưởng. Về thao tác và vật chất thường có công nghệ cũng như đa dạng trong trình bày.

 

PV: Nghệ thuật đương đại ở Việt Nam cũng đã diễn ra được hơn một thập kỷ qua. Nếu tạm bỏ qua những ảnh hưởng truyền thông để nhìn nhận rõ hơn về chất lượng nghệ thuật cũng như tính chuyên nghiệp của nó, ý kiến của anh thế nào?

 

 

T.L: Vấn đề nổi cộm rõ ràng là quá yếu về tính chuyên nghiệp thể hiện ở các phía: tác phong và kinh nghiệm làm việc của nghệ sĩ; ý thức và kinh nghiệm của nhà tổ chức; sự trịch thượng và hạn hẹp với nghệ thuật của cơ quan công quyền quản lí văn hóa trong việc ủng hộ về tài chính và các điều kiện tổ chức.

 

PV: Cụm từ “dự án (project) xuất hiện ngày càng phổ biến trong các hoạt động nghệ thuật đương đại. Vậy tại sao bây giờ lại là dự án nghệ thuật chứ không còn đơn giản là triển lãm nghệ thuật như những trước? Anh có thể giải thích rõ hơn để chúng ta hiểu được sự xuất hiện của thuật ngữ trên?

T.L: Chẳng có gì lạ khi nghệ thuật không còn giam mình độc thoại trong studio, không còn chỉ tiến triển trong một bộ não có khi vừa yếu đuối vừa độc tài của nghệ sĩ nữa. Khi quá trình sáng tạo giờ đây mang tính đa nguyên trong cả chất liệu (đa chất liệu), kĩ thuật (đa kĩ thuật và kĩ năng) và suy nghĩ (bản chất chia sẻ, đối thoại giữa tác giả với bạn nghệ sĩ, với curator, với khán giả và với môi truờng thông tin), thì bản thân toàn bộ quá trình tác phẩm ra đời đã là một “dự án” nghệ thuật rồi! Từ tác phẩm nhỏ đến các dự án lớn đều huy động đa kênh. Thậm chí, nghệ thuật đã pha trộn cả với các chức năng phát triển xã hội khác như khoa học, nhân đạo, giáo dục và nhiều dự án nghệ thuật có vai trò như một dự án nghiên cứu… Vì vậy phải xếp vào là project, nhưng không cần phải hô lên project làm gì.

Vấn để chỉ còn là chất lượng thật của từng project đến đâu: trong đó chẳng cần nói ra là art project, nếu tác phẩm tốt thì công chúng cũng nhận ra. Còn lúc nào, thời nào chẳng có trống mõ kêu to như thứ mốt xu thời, cũng là lẽ thường tình! Thời gian và trí thức nhân loại luôn sẽ phân định sáng tỏ và công bằng thôi!

 

PV: Là người có nhiều kinh nghiệm với công tác tổ chức cũng như có nhiều chuyến đi ra quốc tế, anh có thấy nhiều trường hợp curator vẫn hoạt động tổ chức trong khi họ cũng không hề có những bằng cấp một cách chính thức, tựa như trường hợp của anh vậy?

 

T.L: Đương nhiên, ở rất nhiều nước vẫn có những curator hoạt động tổ chức một cách bình thưòng mặc dù không có bằng này cấp nọ. Thật đơn giản khi chúng ta nhìn nhận đó như một hiện tượng xã hội. Đến lúc xã hội vận chuyển và mọi cơ chế cũng như nhu cầu trong đó đòi hỏi phải có nghành nghệ tượng tự. Nhưng khi ngành curator đã trở nên nghiễm nhiên và phần nào đó như là một “dịch vụ” tích cực cho mọi hoạt động nghệ thuật. Thì nó phải đi vào một hệ thống và có nghiên cứu và lý thuyết hóa để trở thành một chương trình đào tạo chuyên nghiệp. Khoảng sau những năm 70 của thế kỷ trước, hầu hết curator đều được đào tạo và có bằng cấp chuyên ngành thực sự. Cũng xin nói thêm có không ít curator kỳ cựu không bằng cấp hoạt động từ thời những năm 60. Đến giờ, họ vẫn hoạt động hiệu quả và có uy tín lớn khiến cho những curator này trở thành chuyên gia giảng dạy cho sinh viên học chuyên nghành. Chính họ cũng có thể coi là một dạng giáo trình, và một phần nào đó tạo nên giáo trình.

 

PV: Về sự ưu tiên, nghệ thuật đương đại của ta bây giờ nên đi sâu hay đi rộng?

 

T.L: Hình như câu hỏi này có vấn đề, tôi e lẽ ra nó phải là: trong nghệ thuật đương đại, cái gì nên đi sâu cái gì nên đi rộng thì sẽ trúng vấn đề hơn.

            Về mặt chuyên môn có tính chất hàn lâm cũng như chiến lược phát triển trung tâm thì đương nhiên, nghệ thuật đương đại phải đi sâu. Nhưng song song với nó, chắc chắn phải nên có một chiến lược phát triển đi rộng ở việc xây dựng cơ sở hạ tầng, chiến lược giáo dục, phát triển cộng đồng cũng như phổ cập và truyền thông. Một khi có đồng thời cả hai hướng đi trên tức là chúng ta đang có sự phát triển đồng bộ và có tính hệ thống.


Nguồn : Tạp chí VHNT số 302, tháng 8-2009

Tác giả : Vũ Đức Toàn

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *