Về mối quan hệ giữa văn hóa với đối ngoại, quốc phòng, an ninh

Trên cơ sở đổi mới nhận thức, tổng kết kinh nghiệm của thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta từ năm 1986 đến nay, tư duy lý luận về kết hợp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với đối ngoại, quốc phòng, an ninh trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc Việt Nam là chủ trương, quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước. Trong đó, văn hóa luôn giữ vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường sức mạnh quân sự, quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế. Quan điểm này được phát triển một cách toàn diện tại Đại hội Đảng lần thứ XII, coi văn hóa là một trong những nhân tố cấu thành không thể thiếu của sự kết hợp đó.

Phát huy vai trò của văn hóa trong hoạt động đối ngoại quốc gia

Hiện nay các nước đều coi trọng lợi ích quốc gia khi thực thi chính sách đối ngoại. Xác định đường lối đối ngoại đặt lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu hàng đầu vừa phù hợp với xu thế chung, vừa là ý Đảng lòng dân, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội. Đường lối đối ngoại là một bộ phận của đường lối lãnh đạo chung của Đảng ở mỗi giai đoạn cách mạng. Trên nền tảng nền văn hóa lâu đời của dân tộc, trong quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế, Đảng ta đã nhận thức rõ vai trò quan trọng của văn hóa nói chung, trong chính sách đối ngoại nói riêng vì mục tiêu lợi ích quốc gia, thúc đẩy hình thức ngoại giao văn hóa tích cực, hiệu quả.

Cùng với sự đổi mới tư duy kinh tế, chính trị, Đảng ta đã có những đổi mới quan trọng về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đảng ta xác định: “Văn hóa là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện trình độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại, là lĩnh vực sản xuất tinh thần tạo ra những giá trị văn hóa, những công trình nghệ thuật được lưu truyền từ đời này sang đời khác, làm giàu thêm cuộc sống con người” (1). Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, văn hóa luôn được Đảng ta chú trọng, nhấn mạnh. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội. Chăm lo xây dựng, phát triển văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ, lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế, xã hội bền vững” (2). Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta còn xác định vị trí của văn hóa là một trong ba bộ phận hợp thành sự phát triển bền vững, toàn diện đất nước theo định hướng XHCN: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội, con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định, bảo đảm cho sự phát triển toàn diện, bền vững của đất nước”(3). Có thể nói, đây là nhận thức sâu sắc của Đảng, bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng về vai trò to lớn, ý nghĩa nền tảng của văn hóa trong phát triển bền vững, toàn diện đất nước. Cùng với nhận thức đó, cương lĩnh của Đảng được thông qua tại Đại hội XI cũng thể hiện rõ quan điểm xây dựng nền văn hóa Việt Nam ở tầm chiến lược phát triển: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”(4). Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, giữ gìn bản sắc tốt đẹp của dân tộc. Chủ động hợp tác, giao lưu quốc tế về văn hóa, quảng bá văn hóa Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển với mục tiêu: xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân, thiện, mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững, bảo vệ vững chắc tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (5).

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, văn hóa có ý nghĩa là quyền lực mềm trong sức mạnh tổng hợp quốc gia, có khả năng thuyết phục, sức thâm nhập mạnh để đạt được mục tiêu trong các quan hệ đối ngoại, nhằm tăng cường ảnh hưởng, đạt được lợi ích quốc gia, mang lại hòa bình, ổn định hơn trong các mối quan hệ quốc tế mà các biện pháp về chính trị, quân sự khó đạt được. Văn hóa được sử dụng như là đối tượng, phương tiện nhằm đạt được những mục tiêu cơ bản của chính sách đối ngoại quốc gia, tạo hình ảnh tốt đẹp của đất nước, giới thiệu, quảng bá văn hóa, ngôn ngữ của mỗi quốc gia dân tộc với cộng đồng thế giới, tăng cường sự hiểu biết, tình hữu nghị giữa các quốc gia dân tộc. Mặt khác, có điều kiện tiếp thu tinh hoa văn hóa của các nước để làm giàu cho nền văn hóa quốc gia dân tộc mình, thiết lập, phát triển, duy trì mối quan hệ giữa các quốc gia.

Nhận thức đúng đắn về tình hình thế giới, khu vực, thực tiễn của thời đại, Đại hội XI của Đảng đã phát triển quan điểm chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế của Đại hội X thành độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia dân tộc. Những phương hướng cơ bản cho lĩnh vực đối ngoại bao gồm: bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi; thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước “bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh” (6). Ngoại giao văn hóa là một lĩnh vực của hoạt động đối ngoại, giữ vị trí nền tảng tinh thần của hoạt động đối ngoại, góp phần thực hiện các mục tiêu, chiến lược chính trị đối ngoại của Đảng, Nhà nước, nâng cao sự hiểu biết đúng đắn, sâu sắc hơn về đất nước, con người, nền văn hóa Việt Nam. Thông qua các hoạt động ngoại giao văn hóa, giao lưu văn hóa, các kênh thông tin văn hóa đối ngoại góp phần tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm phong phú, sâu sắc thêm những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, đồng thời góp phần tạo dựng lòng tin trong việc xây dựng mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam với các nước trên thế giới.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, văn hóa, đối ngoại có mối liên hệ rất chặt chẽ; ngoại giao văn hóa được xem như một hoạt động chính trị phục vụ lợi ích quốc gia dưới sự che chở của văn hóa. Lĩnh vực này trở thành cầu nối, thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế, thiết lập sự cảm thông tin tưởng, nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau, tạo dựng lòng tin cho việc xây dựng mối quan hệ hữu nghị lâu dài, tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển. Đồng thời, giới thiệu đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam với thế giới, hướng tới việc nâng cao hiểu biết đúng đắn, thu hút thiện cảm, sự ủng hộ của bạn bè quốc tế chống lại những âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ an ninh quốc gia. Bên cạnh đó, khơi dậy tình yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào dân tộc của người dân trong, ngoài nước, khuyến khích giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc, tiến tới định hướng phát triển cho một nền văn hóa. Thông qua các hoạt động đối ngoại văn hóa, các giá trị tinh hoa, tư tưởng nhân văn, giá trị đạo đức, tri thức, khoa học tiên tiến của các nước trên thế giới được tiếp thu có chọn lọc nhằm góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa của Việt Nam, nâng cao chất lượng đời sống tinh thần của nhân dân.

Trên cơ sở nhận thức rõ vai trò quan trọng của văn hóa trong hoạt động đối ngoại, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều hành động cụ thể để phát huy mối quan hệ chặt chẽ giữa văn hóa với đối ngoại. Cụ thể là thúc đẩy hình thức ngoại giao văn hóa tích cực, hiệu quả, tăng cường cơ hội hợp tác văn hóa toàn cầu, củng cố mối quan hệ với các quốc gia khác, góp phần thắt chặt hơn nữa mối quan hệ chính trị với các nước, xóa nhòa những bất đồng chính trị, góp phần vào hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế của đất nước, xây dựng lòng tin chiến lược giữa Việt Nam với quốc tế.

Kết hợp chặt chẽ giữa văn hóa với tăng cường quốc phòng, an ninh trong xây dựng, bảo vệ tổ quốc

Trên cơ sở đổi mới nhận thức, tổng kết kinh nghiệm của thời kỳ quá độ ở nước ta từ năm 1986 đến nay đã khẳng định vai trò, tính tất yếu khách quan phải kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh trong bảo vệ tổ quốc. Mối quan hệ biện chứng giữa các nhiệm vụ này là vấn đề có tính quy luật, là yêu cầu mang tính nguyên tắc trong thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh ở Việt Nam.

Ở nước ta trong thời gian qua cho thấy, vấn đề văn hóa, xã hội đã, đang có tác động không nhỏ tới quốc phòng, an ninh. Đảng ta từng khẳng định văn hóa vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế, xã hội. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người, xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa, con người trong phát triển kinh tế. Xây dựng, phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Đồng thời, văn hóa là “sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát triển”, là một trong những yếu tố vừa bền vững, vừa năng động, góp phần khai thác, nhân lên sức mạnh mềm của quốc gia để tạo nên sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp bảo vệ tổ quốc.

Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đã đưa yếu tố văn hóa vào sự kết hợp chặt chẽ với tăng cường quốc phòng, an ninh nhằm khắc phục tình trạng coi nhẹ văn hóa trong chiến lược bảo vệ tổ quốc, luôn coi trọng xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết số 33-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 9, khóa XI về xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã đưa ra quan điểm gắn các hoạt động văn hóa với phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, với chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới đã xác định 6 giải pháp lớn, trong đó có giải pháp về xây dựng, bảo vệ, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đi đôi với phòng, chống, đẩy lùi văn hóa độc hại, nguy cơ xâm lăng văn hóa từ bên ngoài vào. Kế thừa quan điểm các đại hội trước, Đại hội XII của Đảng phát triển tư duy lý luận về kết hợp kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh, kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong tình hình mới. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo. Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh với đối ngoại” (7). Việc đưa yếu tố văn hóa là một thành tố của sự kết hợp trong nội dung của Nghị quyết này thể hiện sự phát triển sáng tạo tư duy lý luận của Đảng ta nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa trong xây dựng, bảo vệ tổ quốc, nhằm hướng vào giải quyết những vấn đề đặt ra từ thực tiễn. Theo quan điểm của Đảng về văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Đồng thời, Đảng ta còn nhận thức rõ tầm quan trọng của văn hóa đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, yêu cầu phải gắn kết chặt chẽ các nhiệm vụ đó. Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định gắn kết chặt chẽ, triển khai đồng bộ các nhiệm vụ; trong đó, phát triển kinh tế, xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa, bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Kết hợp chặt chẽ giữa các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh trong bảo vệ tổ quốc là bước phát triển mới về nhận thức, là kết quả tư duy lý luận của Đảng ta, nắm bắt xu thế phát triển của thời cuộc nhằm giải quyết hài hòa, hiệu quả mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới. Với quan điểm này, bảo vệ tổ quốc không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, an ninh mà được mở rộng, thực hiện đồng bộ, thống nhất trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội… Điều này cũng phù hợp với quan điểm của Đảng khi khẳng định sức mạnh bảo vệ tổ quốc là sự hợp thành của nhiều nhân tố, về lực lượng, thế trận, sức mạnh vật chất, sức mạnh tinh thần, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, sức mạnh trong nước cũng như quốc tế.

Kết hợp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với đối ngoại, quốc phòng, an ninh là vấn đề có tính quy luật phổ biến, là truyền thống của dân tộc ta trong quá trình dựng nước, giữ nước. Trên cơ sở tư duy biện chứng, kế thừa những kinh nghiệm truyền thống, quán triệt những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước ta đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với các giai đoạn của cách mạng Việt Nam; nắm vững những yêu cầu mới, vận dụng sáng tạo mối quan hệ kết hợp giữa văn hóa với đối ngoại, quốc phòng, an ninh trong thời kỳ mới. Từ đó góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế, xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

______________

1. Về lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật trong công cuộc đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.15.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.55.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.213.

4. Nguyễn Phú Trọng, Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.155.

5, 6, 7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.303, 156, 149.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 404, tháng 2 – 2018

Tác giả : LÊ THỊ BÍCH THỦY

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *