Về quan điểm xây dựng nền văn hóa việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc


 

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTW Đảng khóa VIII (gọi tắt là Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII) ra đời và đi vào cuộc sống đã tròn 15 năm. Như vậy, sau Đề cương về cách mạng văn hóa Việt Nam 1943, có thể coi Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII về việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một tuyên ngôn văn hóa thời kỳ đổi mới, có tác động mạnh mẽ và rộng khắp trong đời sống văn hóa xã hội Việt Nam, thực sự trở thành kim chỉ nam giúp cho văn hóa nghệ thuật Việt Nam phục hồi, đổi mới và phát triển.

Với tư duy mới, cách nhìn trực diện và thẳng thắn, Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII không chỉ kế thừa các điểm mạnh, tích cực của Đề cương Văn hóa Việt Nam, của các nghị quyết về văn hóa trước đây mà còn đánh giá trung thực thực trạng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa; không chỉ nói về thành tựu mà còn chỉ ra những khuyết điểm, yếu kém về văn hóa cần khắc phục, bước đầu chỉ ra đường hướng phát triển văn hóa, góp phần to lớn vào việc giải quyết những bất cập, tồn tại trong đời sống văn hóa từ trung ương đến cơ sở.

Nhìn lại 15 năm thực hiện Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII trên phạm vi toàn quốc, ở các cấp, các ngành, các địa phương…, có thể bước đầu nhận thấy rằng đây là một nghị quyết được xây dựng công phu, khoa học, bàn thảo kỹ lưỡng, đặt ra nhiều vấn đề quan trọng mang tính vĩ mô nhưng sát hợp và đáp ứng đúng nhu cầu thực tiễn, có giá trị lớn đối với các đối tượng lãnh đạo, quản lý, thực hành và hưởng thụ văn hóa. Nhiều vấn đề lý luận, nhiều quan điểm mà Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII đặt ra đến nay vẫn còn nguyên giá trị, thậm chí có những vấn đề mà chúng ta phải phấn đấu thực sự và lâu dài mới có thể thực hiện được.

Nội dung cơ bản của Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII có thể gói gọn vào 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản và 10 nhiệm vụ cụ thể trong xây dựng và phát triển văn hóa thời kỳ mới. Đặc biệt, 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản về phát triển văn hóa đã khẳng định cách nhìn sâu, rộng, cũng như nhận thức mới mẻ về vị thế cao, vai trò lớn của văn hóa trong phát triển kinh tế xã hội, thực sự mở ra một hướng đi mới cho văn hóa Việt Nam trên cơ sở kế thừa tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Cùng với 4 quan điểm chiến lược: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội; nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; văn hóa là một mặt trận, xây dựng, phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng; quan điểm nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã thực sự khẳng định định hướng của Đảng về tính chất hoàn thiện của nền văn hóa Việt Nam vừa truyền thống vừa hiện đại, vừa dân tộc vừa quốc tế, vừa dân gian vừa bác học, vừa bản sắc vừa tiến bộ… 5 quan điểm chỉ đạo ấy hợp thành một hệ thống quan điểm chỉ đạo văn hóa đồng bộ, sát thực, mà chỉ khi thực hiện đồng thời, có kết quả cả 5 quan điểm chỉ đạo đó, chúng ta mới hy vọng xây dựng được một nền văn hóa Việt Nam theo đúng quan niệm và mô hình mà chúng ta mong muốn. Tuy nhiên, trong hệ thống quan điểm đó, mỗi quan điểm lại có một vị trí riêng, nội dung riêng, thể hiện sức tác động riêng trong mối tương tác chung.

Cho đến nay, việc triển khai đồng bộ các quan điểm chỉ đạo nói chung, quan điểm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói riêng vào thực tiễn hoạt động văn hóa đã tạo nên một không khí mới trong xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa, tạo nên nhiều thành tựu đáng ghi nhận trên tất cả các lĩnh vực hoạt động văn hóa từ sáng tạo, lưu giữ, phổ biến đến hưởng thụ giá trị văn hóa. Và, có thể coi đó là một thành công khi những nội dung của quan điểm chỉ đạo văn hóa thực sự đến được, thấm vào từng người, từng gia đình, tập thể, cộng đồng, từng địa bàn dân cư, mọi cấp độ sinh hoạt và quan hệ của con người, vào toàn bộ đời sống xã hội ở những mức độ khác nhau, sự phù hợp khác nhau. Do đó, có thể khẳng định, tinh thần của quan điểm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã gắn chặt, ăn sâu vào tâm trí, hành vi, hành động của từng người, từng gia đình, cộng đồng và xã hội; đã điều chỉnh từng hoạt động, hình thức, phương thức và giải pháp thực hiện việc xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam nhiều năm qua.

Tuy nhiên, thực tiễn triển khai thực hiện quan điểm xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong 15 năm qua, với những tính chất như đã nêu, cũng đang đặt ra một số khía cạnh cần nghiên cứu, thảo luận thêm cho sáng rõ hơn (chẳng hạn, nền văn hóa tiên tiến thực chất là gì; thế nào là đậm đà bản sắc dân tộc; có thể lượng hóa cụ thể hơn những khái niệm đó không…) nhằm tạo điều kiện để quan điểm chỉ đạo quan trọng này tiếp tục có tác động lớn, sâu sắc và cụ thể hơn trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam.

Khẳng định quan điểm chỉ đạo: nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII cũng đồng thời bày tỏ ngay quan niệm về tính tiên tiến, về bản sắc dân tộc của văn hóa:

“Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.

Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống… Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo. Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ”(1).

Những quan niệm như vậy là khá rõ ràng theo quan điểm lý luận được triển khai một cách mạch lạc, khoa học. Và chính vì thế, khi lan tỏa vào hoạt động thực tiễn, những quan niệm này từng bước thích ứng, đi sâu, bắt rễ vào tâm thức cộng đồng và đem lại không ít thành tựu văn hóa như chúng ta từng biết. Nhưng, tự thẳm sâu, khi ngẫm nghĩ thật kỹ từng quan niệm, từng khái niệm, thì bên cạnh sự đồng nhất vẫn nảy sinh một chút băn khoăn về phạm vi, nội hàm hay ngoại diên của một vài khái niệm mà ai cũng hiểu về đại thể nhưng không phải ai cũng có thể hiểu kỹ khi đi sâu vào khái niệm. Chúng tôi xin đơn cử một vài khía cạnh.

Thứ nhất, nên hiểu là bản sắc văn hóa của dân tộc hay bản sắc dân tộc của văn hóa, đây là hai vấn đề hay một vấn đề? Nhiều năm qua, cả về mặt lý luận lẫn mặt hoạt động thực tiễn, chúng ta hình như đánh đồng đây là một khái niệm, nói thế nào cũng được, và ai cũng hiểu, cũng thực hiện được… Hoặc giả, chúng ta mặc định cho rằng đây là một cách nói tắt, viết tắt của những khái niệm có thể thay thế cho nhau, không ảnh hưởng đến nội dung, nội hàm khái niệm. Hiểu theo quan niệm của UNESCO, văn hóa là tổng thể những nét đặc trưng tiêu biểu nhất của một dân tộc (quốc gia, xã hội) thể hiện trên các mặt vật chất và tinh thần, tri thức và tình cảm…

Như thế, văn hóa mang bản sắc của dân tộc (quốc gia, xã hội) ấy, thể hiện ở hệ thống giá trị, tức những gì tạo thành chuẩn mực xã hội, định hướng cho sự lựa chọn phát triển của con người, cộng đồng, dân tộc, giúp cho dân tộc đó giữ được tính duy nhất độc đáo, tính thống nhất, tính nhất quán của dân tộc mình trong tương quan với dân tộc khác. Và, ở bước đầu tiên, chúng tôi cho rằng, cần phải đặc định bản sắc dân tộc Việt Nam, tức những giá trị tinh tuyển chỉ riêng dân tộc Việt Nam có hoặc những giá trị phổ quát nhân loại nhưng đã được chọn lọc, vun đắp như là một giá trị truyền thống phổ biến của dân tộc Việt Nam (thực ra là cộng đồng đa dân tộc ở Việt Nam). Đó chính là văn hóa Việt Nam, chứa đựng và phản ánh sự phát triển của dân tộc Việt Nam. Và, bước tiếp theo, chính là lúc chúng ta đi tìm bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam khi giao lưu với văn hóa các dân tộc khác trong tinh thần tiếp thu, cải biến, thích hợp hóa những gì tiến bộ, phù hợp mà văn hóa Việt Nam chưa có hoặc ít có; truyền bá, tạo cơ chế để các nền văn hóa khác nhập vào những gì mà văn hóa Việt Nam mạnh, có ưu thế. Có nghĩa là, khi đã xác định được hệ thống những yếu tố thuộc về bản sắc dân tộc Việt Nam, mà như chúng ta vẫn thường đặc định là: lòng yêu nước, ý thức tự lập tự cường, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, tính khoan dung, trọng tình nghĩa, hiểu đạo lý, lao động cần cù, cư xử tinh tế, lối sống giản dị… thì cũng cần có cơ chế lượng hóa và sắp xếp những phẩm chất mà dân tộc Việt Nam mạnh nhất, hoặc chỉ dân tộc Việt Nam mới có; hoặc những đặc tính nào ta vốn không có, nhưng tiếp thu và Việt hóa thành bản sắc dân tộc Việt Nam… Bởi, những gì mà chúng ta thường liệt kê như bản sắc dân tộc Việt Nam, nếu không lầm, cũng là những đặc điểm mang tính nhân loại, đặc sắc của không ít quốc gia khác. Làm được điều này, chúng tôi tin rằng, đây sẽ là điều kiện để củng cố niềm tự tin, tự tôn về bản sắc dân tộc, về văn hóa Việt Nam; đồng thời cũng định hướng để chúng ta tập trung vào thúc đẩy đặc tính nào trong hoạt động thực tiễn để thúc đẩy, nâng cao, bổ sung hệ giá trị địch thực của dân tộc và của văn hóa Việt Nam.

Thứ hai, về khái niệm văn hóa tiên tiến. Qua các chủ trương, nghị quyết của Đảng, đặc biệt qua Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII chuyên về văn hóa, có thể khái quát nền văn hóa tiên tiến ở Việt Nam có một số đặc trưng: yêu nước, tiến bộ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhân văn… Thực ra, nền văn hóa tiên tiến phải là nền văn hóa kết tinh được tất cả những gì tiến bộ của dân tộc, của thời đại và của xã hội loài người. Nói một cách nôm na, nền văn hóa tiên tiến phải thích nghi, tiếp cận và bước tới một nền văn hóa khoa học, hiện đại, có được bản lĩnh để tiếp thu cái mới, cái hay phù hợp với xu thế phát triển hiện đại từ bên ngoài mà không đánh mất mình; đồng thời có bản lĩnh từ bỏ những cái xấu, cái cũ của mình không còn phù hợp với xu thế phát triển nhân loại. Tuy khái niệm tiên tiến đã được Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII định danh rõ nội hàm, và về mặt triển khai nội dung của nó vào thực tiễn đời sống không có gì vướng mắc, nhưng chúng tôi cho rằng cũng đã đến lúc nên cân nhắc sử dụng khái niệm nền văn hóa tiến bộ (đương nhiên là khoa học) vì nó gần gũi với các khái niệm tiến bộ xã hội, công bằng xã hội… và tương quan cặp đôi tiến bộ – lạc hậu. Và tiến bộ văn hóa (văn hóa tiến bộ) là một tiêu chí quan trọng trong cơ cấu tiến bộ xã hội thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ngoài các tiêu chí quan trọng khác như: lực lượng sản xuất phát triển với hàm lượng khoa học cao, quan hệ sản xuất phù hợp cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; quyền làm chủ của người dân được đảm bảo thông qua nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; môi trường sinh thái được bảo vệ và cải thiện; con người có điều kiện phát triển thể chất, trí tuệ, đạo đức, nghề nghiệp, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc… thì một tiêu chí hết sức quan trọng là văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, trình độ dân trí phát triển, quan hệ giữa con người với con người, xã hội và thiên nhiên lành mạnh, thói hư tật xấu và tệ nạn xã hội được ngăn chặn và đẩy lùi… Đó chính là tiến bộ văn hóa, một nền văn hóa có tư tưởng tiến bộ, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đồng thời hiện đại hóa trong các yếu tố văn hóa, hợp thành và thúc đẩy tiến bộ xã hội ở Việt Nam, mà cái đích hướng tới là sự phát triển toàn diện của con người.

Đi cùng với khái niệm tiên tiến là khái niệm đậm đà bản sắc dân tộc mang tính chất mở, trừu tượng và khó định lượng…Không ít luận bàn đã xảy ra nơi này, lúc khác xung quanh cái tính từ đậm đà ấy, và cuối cùng cũng đành đồng thuận một cách tương đối: đậm đà đồng nghĩa với nhiều. Về mặt nội dung truyền bá hay triển khai thực hiện trong đời sống văn hóa, đây không phải là một vấn đề nan giải, nhưng quả thực, dù có nói quen miệng đến mức nào chăng nữa, thì đậm đà bản sắc dân tộc cũng không thực sự xứng danh là một thuật ngữ văn hóa khoa học, chính xác…

Có lẽ, nên chăng, chúng ta nói: xây dựng nền văn hóa Việt Nam dân tộc, tiến bộ hoặc trở lại với các nguyên tắc đặc trưng thời Đề cương Văn hóa Việt Nam 1943: xây dựng nền văn hóa Việt Nam dân tộc, khoa học, đại chúng.

Với cách nhìn vấn đề mang tính động cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, chúng tôi cảm nhận được sức sống mãnh liệt, sức lan tỏa rộng khắp, sức tác động biến cái đúng lý luận thành hành động đột phá trong thực tiễn văn hóa, tạo nên nhiều thành tựu văn hóa xứng đáng của nghị quyết TƯ 5 khóa VIII, một nghị quyết đầu tiên dành riêng cho vấn đề phát triển văn hóa Việt Nam thời kỳ đổi mới. Có thể khẳng định, Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII là một văn bản chủ trương, đường lối khoa học, công phu, logic với những nhận thức tiến bộ về vị thế, vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa Việt Nam trong phát triển kinh tế xã hội đất nước; với những tổng kết, đánh giá khách quan, trung thực cả thành tựu và yếu kém, cả được và mất trong lý luận và thực tiễn hoạt động văn hóa (đây là một nhãn quan tiến bộ, không phải văn bản nào cũng đạt được), với việc đề ra 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản, 10 nhiệm vụ cụ thể và 4 nhóm giải pháp lớn… đã vực dậy và tạo đột biến lớn trong tư duy lý luận văn hóa cũng như hoạt động văn hóa thực tiễn, đặc biệt trong các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa. Không có gì quá lời khi không ít nhà khoa học, nhà nghệ thuật khẳng định Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII là kim chỉ nam, là ngọn đuốc soi đường cho công cuộc phục hưng, phát triển văn hóa Việt Nam cuối TK XX và cả TK XXI. Quả thật, chiết xuất từ nghị quyết TƯ 5 khóa VIII, những phong trào nghiên cứu lý luận, tư tưởng văn hóa xuất hiện; những phong trào vận động quần chúng chung tay xây dựng văn hóa lan rộng và sâu trong cả nước; những chủ trương chính sách về xã hội hóa hoạt động văn hóa, về các chương trình văn hóa quốc gia, về đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa… được ban hành và triển khai kịp thời; tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa có những chuyển biến tích cực với chất lượng cao; công cuộc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc có nhiều tiến bộ; hoạt động văn hóa ở cơ sở có nhiều khởi sắc với những hình thức đa dạng, phong phú… Cả nước bừng lên một phong trào vận động văn hóa với động lực mới, tinh thần mới, ý thức mới, vị thế mới và hào hứng thi đua mới.

15 năm đã trôi qua từ khi triển khai và thực hiện nội dung của Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII trong đời sống văn hóa xã hội. Nhìn lại một chặng đường không quá dài, có thể khẳng định, cùng với Đề cương cách mạng văn hóa Việt Nam 1943 thời kỳ chống ách đô hộ của Nhật Pháp, Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII 1998 xứng đáng là tuyên ngôn của một cuộc cách mạng văn hóa thời kỳ đổi mới, thúc đẩy và tạo động lực cho nhiều cải cách văn hóa theo hướng tiến bộ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ý nghĩa, vai trò, thành tựu… của Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII trong việc phục hưng văn hóa Việt Nam cuối TK XX là hết sức rõ ràng; và nhiều nội dung, vấn đề mà Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII đặt ra sẽ còn có tác dụng chỉ lối cho sự vận động, phát triển văn hóa Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Dù thế, nhìn tổng thể cũng như nhìn lại sự triển khai kỹ thuật về quan điểm xây dựng nền văn hóa Việt Nam, trên tinh thần bổ sung, hoàn thiện lý luận nhằm tạo thêm động lực thúc đẩy phong trào thực tiễn xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong bối cảnh giao lưu, hội nhập văn hóa mạnh mẽ, chúng tôi nêu một vài băn khoăn nhỏ như trên để các nhà khoa học, các vị học giả, các nhà quản lý và hoạt động văn hóa… luận bàn, góp sức cho việc hoàn thiện một văn bản nghị quyết về phát triển văn hóa thời kỳ mới hết sức quan trọng và có tầm cỡ này.

_______________

1. Đảng CSVN, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.55, 56.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 348, tháng 6-2013

Tác giả : Hương Ly

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *