Từ ngàn xưa, ông cha ta đã xem uống trà là thú vui thanh đạm, tinh tế. Uống trà khởi nguồn từ các chùa chiền, sau đó nhanh chóng được sự sủng ái, đón nhận của tầng lớp nho giáo, sĩ phu, các gia đình quyền quý và tầng lớp trung lưu… Lâu dần cách thưởng thức trà đó đã làm nên một nét văn hóa độc đáo của người Việt. Pha cho mình cũng như pha trà mời khách, người ta phải để vào đấy nhiều công phu, những công phu đó đã trở nên lễ nghi. Để có một chén trà ngon, thì bộ đồ pha trà đóng một vai trò rất quan trọng bởi người uống trà rất chú ý đến nghệ thuật thưởng thức trà với nhiều loại trà cụ cần thiết, sao cho người uống cũng có thể cảm nhận và thể nghiệm về trà giống như các thiền sư. Trà cụ, công cụ để pha trà, cũng rất cầu kỳ và cũng có sự biến chuyển qua các thời đại, nói chung là đẹp hơn, thanh hơn lúc đầu. Mỗi bộ trà cụ thường có: ấm, lồng, chuyên, chén tống, chén quân, dĩa dầm, khay, bình đựng trà, hỏa lò, ấm đun nước bằng đồng cùng một số dụng cụ khác như thìa xúc trà, kẹp lấy bã trà. Trà cụ được chế tạo bằng nhiều chất liệu khác nhau như gốm sứ, đất nung, kim loại, thủy tinh, gỗ…, riêng trà cụ dùng để xúc trà, lấy bã trà đều bằng tre khô hoặc gỗ thơm.
Thời Nguyễn, nghệ thuật uống trà, vốn được coi là cung cách của người quý phái, càng được ưa chuộng hơn trong đời sống cung đình như một bằng chứng của sự giàu sang quyền quý. Nghệ thuật thưởng thức trà khá phức tạp, phải hội đủ hàng chục yếu tố, trong đó nhất thiết phải có đầy đủ dụng cụ để pha trà. Các bộ trà cụ thời Nguyễn rất phong phú về kiểu dáng, đa dạng về chất liệu như gốm sứ, đất nung, thủy tinh, ngà voi, đá, đồng, bạc, gỗ. Trà cụ bằng gỗ có số lượng không nhiều song lại chiếm vị trí khá đặc biệt trong nhóm trà cụ thời Nguyễn bởi sự có mặt của những chiếc khay gỗ quý với đủ loại hình dạng khác nhau. Đó là những chiếc khay làm bằng gỗ trắc khảm xà cừ, gỗ mun chạm nổi, chạm lọng, cao hơn một chút nữa là khay gỗ thành bằng ngà voi, khay gỗ bọc đồi mồi. Phổ biến trong nhóm khay trà thời Nguyễn là khay lá lan và khay thành đứng. Theo cách phân loại của giới thưởng trà thì khay lá lan là loại khay nhỏ, chân thấp, thành gọt “bo măng”, để vừa một bộ trà xinh (1). Loại khay này thường là khay hình vuông. Bên cạnh khay lá lan là loại khay thành đứng hay còn gọi khay chân cao thường có hình chữ nhật. Đây là loại khay lớn hơn khay lá lan, có cấu tạo cầu kỳ với chân cao, thành cao. Về chế tác, loại khay chân cao, dù là chân quỳ hay giò nai, trông sắc sảo và quý phái hơn song có chút bất lợi trong sử dụng so với lá lan do khay kích cỡ bề thế hơn. Trên thực tế, xét về kiểu dáng, khay gỗ thời Nguyễn hiện còn lưu giữ tại Huế có 3 nhóm chính: khay chữ nhật, khay vuông và khay có hình dáng đặc biệt.
Khay chữ nhật
Đa số được chế tạo theo dạng thành đứng có 4 chân quỳ cao, đáy thắt, diềm đế hình kỷ hà hay tam sơn cách điệu. Dạng khay này trông rất bề thế, chắc chắn bởi 4 góc khay được bịt bạc hoặc đồng một cách cẩn thận, dưới các chân khay cấu tạo dạng chân quỳ chạm nổi mặt hổ phù luôn nẹp thêm một khung gỗ chạy bao quanh. Loại khay chữ nhật được chế tạo kiểu lá lan có 4 chân thấp hình thước thợ chiếm số lượng rất ít.
Đa phần những chiếc khay thành đứng đều được trang trí toàn thân: lòng khay, thành trong và thành ngoài, viền đáy, diềm đế bằng kỹ thuật khảm cẩn xà cừ. Mặt trong và ngoài của thành khay thường trang trí dây hoa lá, cây lá hóa tứ linh, tứ thời, hoặc các con vật trong tứ linh. Viền đế thường trang trí dây lá, các vật trong bát bửu. Diềm đế được chế tạo dạng hồi văn kỷ hà, chính giữa trang trí mặt hổ phù cách điệu. Lòng khay chính là điểm nhấn đáng chú ý nhất của mỗi chiếc khay. Đây là nơi người thợ để tâm trí thể hiện những đề tài hoa thú, phong cảnh nhân vật rất khác nhau, tạo nên mảng trang trí chính cho toàn bộ chiếc khay. Lòng khay thường trang trí theo dạng ô hộc, đề tài hoa văn chính được thể hiện trong một khung hình chữ nhật hoặc một vòng tròn chính giữa, 4 góc có 4 đề tài phụ.
Một số khay chân cao còn lại được trang trí bằng kỹ thuật chạm nổi và chạm lọng ở thành và diềm đế. Khay chạm lọng thường thể hiện dây hoa lá cúc hóa rồng ở 4 mặt thành, diềm khay chạm nổi dây lá và văn kỷ hà. Khay chạm nổi được thể hiện đề tài lưỡng long chầu chữ thọ dạng mai thọ cách điệu ở 4 mặt thành, diềm trang trí hồi văn kỷ hà. Cá biệt trong nhóm khay thành đứng có 1 chiếc khay khung bằng gỗ, thành được chế tạo bằng ngà voi chạm lọng lưỡng long chầu nhật một cách tinh tế, sắc sảo.
Khay vuông
Chiếm số lượng khá nhiều trong đó khay lá lan chân thấp hình thước thợ chiếm đa số. Dạng khay này trông thanh mảnh và trang trí đơn giản hơn khay thành đứng song cũng không kém phần chắc chắn nhờ 4 góc đều có bịt kim loại vàng, bạc hoặc đồng chạy thẳng từ miệng đến chân đế. Bên cạnh khay lá lan chiếm đa số, loại khay vuông thời Nguyễn cũng có một số ít khay được chế tạo dạng thành đứng, chân quỳ cao, dưới chân gắn với một khung gỗ. Điểm nhấn trong phần cấu tạo của khay lá lan nằm ở phần diềm đế. Khác với khay thành đứng, đường diềm đế của khay lá lan được uốn lượn rất công phu. Chúng ta có thể bắt gặp ở nhóm khay này những đường diềm đa dạng, từ đường ngang đơn giản nhất đến đường diềm hình tam sơn, kỷ hà cách điệu; hình sóng nước, uốn lượn theo nhiều hình dây lá khác nhau… tạo nên sự mềm mại, uyển chuyển, giảm thiểu tối đa nét cứng cỏi của kiểu chân thẳng hình thước thợ.
Thông thường khay lá lan chỉ trang trí phần thành khay và diềm đế bằng kỹ thuật khảm xà cừ hoặc chạm lọng nên đề tài trang trí ít phong phú bằng khay thành đứng. Lòng khay để trơn hoặc sơn đỏ. Khay lá lan khảm xà cừ thường trang trí tứ thời, hoa quả thực vật ở 4 mặt thành ngoài, diềm đế chạy dây lá xen kẽ văn kỷ hà. Đối với khay chạm lọng, chúng ta dễ dàng bắt gặp đề tài dây hoa lá cúc hóa lưỡng long chầu mặt hổ phù cách điệu trên thành khay và dây lá uốn lượn mềm mại tạo nên diềm khay.
Nổi bật trong nhóm khay lá lan là số ít khay khung gỗ, thành và diềm đế được chế tạo bằng ngà voi chạm lọng trông rất mềm mại và tinh xảo. Thành khay chạm lưỡng long chầu hổ phù cách điệu hoặc song phụng chầu bầu lửa, diềm đế chạm dây lá. Bốn góc của khay ngà được bọc bằng vàng tôn thêm vẻ cao sang, quyền quý. Đây là những chiếc khay ngà hiếm hoi của thời Nguyễn còn lưu giữ được tại Bảo tàng CVCĐ Huế. Đặc biệt, khay lá lan còn có chiếc khay quý hiếm, thành trong và ngoài đều được bọc bằng đồi mồi trông rất lạ mắt.
Khay có hình dáng đặc biệt
Ngoài hai loại khay chính là lá lan và chân cao, khay trà thời Nguyễn còn có một số được chế tạo kiểu dáng rất đặc biệt theo kiểu các khối hình học được uốn nắn lại cho mềm mại, hoặc mô phỏng hình hoa quả thực vật tạo nên sự giao hòa giữa con người với thiên nhiên. Loại khay đặc biệt này chiếm số lượng rất ít trong nhóm khay gỗ, song mỗi cái lại được chế tác theo một hình dạng khác biệt, góp phần tạo nên sự đa dạng về kiểu dáng và phong cách tạo hình cho nhóm khay gỗ thời Nguyễn.
Khay hình chữ nhật cách điệu: là chiếc khay hình chữ nhật được người thợ vát tròn 4 góc, chân hình bậc cấp. Khay được trang trí bằng kỹ thuật khảm cẩn xà cừ ở mặt thành ngoài với các đề tài trang trí khá lạ mắt: hồi văn ô trám xen kẽ các bông hoa và văn cánh sẻ. Vành miệng trang trí hồi văn cánh sẻ, văn khắc vạch. Thành trong và lòng khay được sơn mài màu nâu.
Khay hình tứ giác biến thể: là loại khay vốn có dạng vuông được người thợ uốn 4 góc vanh tròn vào phía trong theo hình cánh cung tạo thành một chiếc khay hình tứ giác biến thể trông rất lạ mắt. Thành và chân khay khảm cẩn xà cừ hồi văn hình học, ô trám, cánh hoa. Kỹ thuật chế tác và phong cách thể hiện của chiếc khay này tương tự khay chữ nhật cách điệu.
Khay hình ôval: Bao quanh miệng khay là đường gờ nổi khắc hình đốt trúc. Lòng khay khảm xà cừ hình bó hoa hồng xen kẽ với cành trúc, chim và bướm.
Khay hình chiếc lá: Được tạo dáng hình ngọn lá chạm nổi nho sóc, hoa và lá trông rất sống động. Đầu khay cũng là đầu ngọn lá chạm thủng hình cuống lá có 4 nhánh, 1 nhánh nối với chiếc lá nhỏ, 1 nhánh nối với chiếc lá lớn tạo thành khay, 1 nhánh nối với bông hoa cùng con sóc nằm sát ngay đầu cuống lá, 1 nhánh chạy xuống mặt dưới của khay tỏa ra tạo thành cành nho với 3 nụ hoa làm 3 chân khay. Lòng khay lõm, góc cuối ngọn lá chạm thủng một lỗ nhỏ. Từ lỗ thủng đó có một con sóc chui từ dưới lên, nằm đối diện với con sóc ở đầu cuống lá.
Khay hình trái đào: Được tạo dáng hình trái đào. Mặt khay lõm chạm nổi hình dây lá nho sóc, dơi, quả đào và bông hoa nhiều cánh. Đáy khay chạm nổi một cành hoa lá có 3 nụ hoa kết hợp với 2 ngọn lá tạo thành chân khay.
Một vài nhận xét
Về chất liệu: Khay không chỉ được chế tạo đơn thuần bằng gỗ mà còn có sự kết hợp với ngà, đồi mồi tạo nên sự đa dạng, quý giá và sang trọng cho một số khay trà. Tuy phong phú về chất liệu song khay gỗ nằm trong bộ đồ trà thời Nguyễn đặc biệt không có loại khay sơn son thếp vàng.
Về kiểu dáng và phong cách tạo hình: Dòng cổ ngoạn này không chỉ phong phú về chất liệu, mà còn đa dạng về kiểu dáng từ vuông, ôval đến chữ nhật, hình quả đào hoặc theo hình chiếc lá… Thế của chúng có lúc kêu vó nai đến yêu kiều, khi lại gọi chân quỳ – dạ cá thật vững chãi… Đa số khay trà thời Nguyễn không chỉ được coi là đồ dùng trong sinh hoạt mà được coi là những tác phẩm nghệ thuật khá thú vị. Giới thưởng trà có đến cả trăm mỹ từ như: lá lan, trúc quân tử, công hầu khanh tướng… chỉ để gọi một chiếc khay nơi bàn trà. Đủ thấy, khay trà chiếm một vị trí như thế nào trong đời sống cung đình cũng như dưới nếp nhà xưa của cha ông chúng ta.
Về hoa văn trang trí: Kỹ thuật chạm nổi và chạm lọng thường thể hiện các đề tài trang trí cây lá hoa quả. Riêng đối với kỹ thuật khảm cẩn xà cừ thì người thợ đã sử dụng rất nhiều đề tài trang trí phong phú trên các khay gỗ. Những đề tài đó có thể phân biệt thành các dạng chủ yếu gồm động vật, hoa thảo và nhân vật. Nhóm đề tài động vật được thể hiện dưới dạng tứ linh, lưỡng long, ngư long hý thủy, song phụng, đoàn phượng nhật bình… Nhóm đề tài hoa thảo vô cùng biến hóa với 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông, còn gọi tứ thời hay tứ bình. Dưới bàn tay người thợ khảm tài hoa, tứ bình thể hiện vô số những khung cảnh dung dị trong đời sống tự nhiên, khi thì một khóm sen, khi lại vài ngọn lau lao xao tiếng nhạn, khi lại nhành trúc uyển chuyển, nhánh lan mềm mại… Thật là thiên hình vạn trạng không sao kể hết. Phong cảnh nhân vật không nhiều, thể hiện các tích cổ xưa như thu phong điếu nguyệt.
Khi nói về văn hóa trà Việt chúng ta không thể không đề cập đến những chiếc khay gỗ, món trà cụ không thể thiếu vắng trong bộ đồ trà. Khay trà cho chúng ta biết về những món trà cụ được sử dụng trong các buổi thưởng trà xưa của vua quan triều Nguyễn; thấy được một phần đời sống cung đình cùng những nét đẹp tao nhã trong nghệ thuật thưởng trà của ông cha ta ngày xưa. Dưới góc nhìn văn hóa và giá trị sử dụng, những chiếc khay trà thời Nguyễn chính là những mẫu vật cụ thể, góp phần thiết thực vào việc phục dựng, phát huy những buổi thưởng trà xưa, nét đẹp văn hóa truyền thống của người Việt nói chung, của cung đình Nguyễn nói riêng.
Người Việt Nam coi uống trà là một tập tục tao nhã, để thưởng thức một thú vui, giúp cho tâm hồn thanh cao, an tĩnh. Nghệ thuật và nghi thức uống trà khá cầu kỳ và phức tạp. Khay trà, bộ trà cụ là những thứ đồ dùng khá đặc biệt, được biết đến nhiều trong những ngôi nhà cổ. Khay trà còn là cách gọi tắt cho cả bộ đồ uống trà. Ngày nay, khay trà đã trở nên cổ cổ, là lạ, hiếm nhà còn giữ được một chiếc khay trà đúng cổ để phô diễn vẻ đẹp xưa. Cũng khó tin rằng, một trong những bài học luân lý đầu tiên của lũ trẻ hồi nửa cuối thế kỷ trước chỉ là lau chiếc khay trà mỗi sáng cho ông bà trước khi cắp sách tới trường. Như một nét giáo huấn thấm sâu, chiếc khay trà bé nhỏ đã thành nơi thể hiện lòng thành kính bình dị nhưng rất đỗi sâu sắc.
_______________
1. Nhật Nam, Khay trà, báo Hà Nội mới, ngày 1-6-2007.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 295, tháng 1-2009
Tác giả : Nguyễn Thị Hồng Dung
Bài viết cùng chủ đề:
Năng lực phản biện khoa học của giảng viên trong nhà trường quân đội
Thế giới quan và phương pháp luận của giảng viên trẻ trong các trường quân đội
Sự chuyển đổi sinh kế của người dân nà lầu, lạng sơn