Địa bàn Quân khu 1 chủ yếu là rừng núi, nhiều địa phương, cơ sở thuộc vùng sâu, vùng xa, biên giới. Trong những năm đổi mới toàn diện, tình hình kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh của các địa phương tuy đã có cải thiện, nhưng nhìn chung đời sống của nhân dân còn khó khăn; trình độ dân trí thấp, không đồng đều, nhất là ở các huyện vùng cao, miền núi và vùng đồng bào dân tộc Dao, Mông, tình trạng mù chữ, tái mù chữ vẫn còn nhiều. Mặt khác, trên địa bàn quân khu còn tiềm ẩn những nhân tố bất ổn định như: trên tuyến biên giới còn nhiều điểm tranh chấp giữa ta và Trung Quốc; tình hình dân tộc, tôn giáo ở một số địa phương khá phức tạp, với các hoạt động: di cư tự do, giáo dân đòi đất để mở rộng, cơi nới nhà thờ, nhà nguyện, hoạt động truyền đạo trái pháp luật; các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan; tệ nạn xã hội ngày càng phức tạp và có chiều hướng gia tăng; các loại tội phạm ở tuyến biên giới vẫn chưa được ngăn chặn.
Công tác dân vận trên địa bàn quân khu trong thời gian qua đã góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, trong những năm qua công tác dân vận trên địa bàn quân khu còn những hạn chế, yếu kém. “Một số cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị, cán bộ dân vận nhận thức, trách nhiệm trong lãnh đạo chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác dân vận chưa tốt, quan tâm chưa đúng mức tới công tác dân vận; còn có biểu hiện xem nhẹ công tác dân vận so với một số mặt công tác khác… Trong tổ chức các hình thức công tác dân vận một số đơn vị chưa thật sự chú trọng đến công tác tuyên truyền vận động nhân dân cùng làm, cùng thực hiện nhiệm vụ; nội dung, phương pháp tuyên truyền còn hạn chế”(1). Một số đơn vị xây dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng bộ quân khu về công tác dân vận còn chưa kịp thời; chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu xã hội, thành phần dân cư, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân trên địa bàn… để có chủ trương, chính sách phù hợp. Việc thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng bộ quân khu về công tác dân vận có đơn vị chưa kịp thời, nhất là cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng bộ Quân khu về công tác dân vận có đơn vị chưa được quan tâm đúng mức. Một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, nhiều bức xúc chưa được giải quyết; quyền làm chủ của nhân dân ở một số địa phương bị vi phạm, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước (2).
Để khắc phục những hạn chế trên góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân trên địa bàn quân khu, công tác dân vận cần tập trung thực hiện tốt các nội dung và giải pháp sau:
Nâng cao nhận thức, phát huy trách nhiệm, bồi dưỡng năng lực tiến hành công tác dân vận ở vùng dân tộc thiểu số
Đây là giải pháp rất quan trọng, xuyên suốt và tạo cơ sở cho các giải pháp khác. Vì có nhận thức đúng đắn sẽ củng cố được động cơ, định hướng và thúc đẩy hành động tích cực của cán bộ, chiến sĩ. Nhận thức càng sâu sắc, càng sát thực tiễn thì động cơ càng mạnh mẽ, vai trò định hướng và thúc đẩy hành động càng rõ rệt. Để công tác dân vận của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số phát triển cả bề rộng và chiều sâu, có hiệu quả cao, đòi hỏi phải làm tốt hơn nữa công tác giáo dục, quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho mọi tổ chức, mọi lực lượng tham gia. Trong tình hình hiện nay, công tác giáo dục, quán triệt nâng cao nhận thức và phát huy trách nhiệm của đội ngũ cán bộ cần đạt được các yêu cầu sau: nội dung giáo dục phải bảo đảm tính toàn diện, chuyên sâu, phù hợp với trình độ nhận thức, chức trách, nhiệm vụ của mỗi tổ chức, lực lượng, sát với tình hình địa bàn và đối tượng tuyên truyền, vận động. Kết hợp giáo dục nhận thức với bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức tác phong, trang bị kiến thức kinh nghiệm, phương pháp tiến hành công tác dân vận cho bộ đội. Kết hợp giữa định hướng tư tưởng với hướng dẫn hành động, rèn luyện bản lĩnh, sự nhạy cảm, khả năng phát hiện và đấu tranh với những quan điểm, tư tưởng, nhận thức, hành động sai trái.
Bên cạnh đó, hình thức, phương pháp giáo dục phải phong phú, đa dạng, chặt chẽ, bảo đảm tính thường xuyên, liên tục và gắn với các nhiệm vụ khác của đơn vị. Phát huy cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và chỉ huy các cấp; vai trò tham mưu, tổ chức thực hiện của cơ quan chính trị, cán bộ chính trị và các tổ chức quần chúng trong giáo dục, nâng cao nhận thức cho bộ đội. Giáo dục những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về vấn đề dân tộc, tôn giáo, công tác vận động quần chúng của Đảng, của quân đội trong giai đoạn mới; đồng thời, tăng cường bồi dưỡng kinh nghiệm thực tiễn tiến hành công tác dân vận đối với đồng bào dân tộc thiểu số cho cán bộ, chiến sĩ để họ nâng cao trách nhiệm và tự tin, chủ động trong thực hiện nhiệm vụ.
Ngoài ra, cần coi trọng việc giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nâng cao hiểu biết về phong tục, tập quán, tín ngưỡng của đồng bào từng khu vực, từng dân tộc. Bên cạnh đó tập trung làm rõ âm mưu và những thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với các vùng dân tộc và trên từng địa bàn đóng quân của từng đơn vị. Bồi dưỡng xây dựng phương pháp, tác phong làm việc khoa học cho cán bộ, chiến sĩ trong công tác dân vận. Đó là tác phong sâu sát thực tế, cụ thể, tỉ mỉ, thực hiện phương châm tiến hành công tác dân vận đối với đồng bào dân tộc thiểu số là chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc nghe đồng bào nói, nói để đồng bào hiểu, hướng dẫn đồng bào, làm để đồng bào tin và rèn luyện phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân. Khắc phục và chống biểu hiện quan liêu, hách dịch, xa rời thực tế, thiếu sâu sát với đồng bào. Bồi dưỡng cho cán bộ chiến sĩ có phương pháp tiếp cận tốt với đồng bào, biết chào hỏi đồng bào theo đúng phong tục, thể hiện lòng thân ái, biết tránh các điều kiêng kỵ, biết giao lưu văn hóa văn nghệ, nhất là các điệu múa của đồng bào các dân tộc.
Tăng cường giáo dục và duy trì nghiêm kỷ luật trong quan hệ với nhân dân đối với mọi cán bộ, chiến sĩ
Thời gian qua, không ít trường hợp vi phạm kỷ luật dân vận, thiếu tôn trọng, quậy phá, lừa dối hoặc lợi dụng đồng bào để làm việc sai trái đã xảy ra, ảnh hưởng xấu đến công tác dân vận, lòng tin và tình đoàn kết quân dân. Vì vậy, giáo dục và duy trì nghiêm kỷ luật trong quan hệ với nhân dân là một nội dung quan trọng, vừa cơ bản lâu dài vừa cấp bách hiện nay. Trong giáo dục phải quan tâm đến chuẩn mực đạo đức của người quân nhân cách mạng; các quy định của điều lệnh, điều lệ quân đội, 12 điều kỷ luật khi quan hệ với nhân dân, pháp luật của Nhà nước, các quy định của địa phương, truyền thống của đơn vị… Đặc biệt, với đồng bào các dân tộc thiểu số, do điều kiện ngôn ngữ và các tập tục, tín ngưỡng riêng của từng dân tộc, việc giữ nghiêm kỷ luật không chỉ dừng lại ở các chế độ, nề nếp kỷ luật chung đã quy định, mà còn là ý thức và hành động đúng, phù hợp với lễ giáo, thuần phong, mỹ tục của từng vùng. Giáo dục, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ gương mẫu chấp hành pháp luật, giữ nghiêm kỷ luật dân vận, tôn trọng kỷ cương xã hội, tôn trọng phong tục, tập quán của đồng bào các dân tộc thiểu số. Giáo dục phải đi đôi với tổ chức quản lý, duy trì nghiêm kỷ luật, kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm.
Nắm vững, vận dụng có hiệu quả các hình thức công tác dân vận của quân đội
Trong thời kỳ mới, đòi hỏi công tác dân vận nói chung, công tác dân vận đối với đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng phải luôn đổi mới hình thức phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn. Cấp ủy và chỉ huy các cấp quán triệt sâu sắc các nghị quyết, văn kiện của Đảng về đổi mới tăng cường công tác dân vận. Đồng thời quan tâm giáo dục, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất năng lực cho các tổ chức, các lực lượng, các tổ đội trực tiếp làm công tác dân vận. Cần xây dựng nội dung, kế hoạch, chương trình dạy tiếng dân tộc cho cán bộ chiến sĩ; trước hết ưu tiên cho các đối tượng cán bộ dân vận chuyên trách, cán bộ tham gia các đội công tác 123, cán bộ và chiến sĩ đội vận động quần chúng của các đồn biên phòng.
Bồi dưỡng trình độ hiểu biết tiếng dân tộc cho lực lượng chuyên trách làm công tác dân vận, bởi vì có trình độ chuyên môn giỏi nhưng chưa biết tiếng dân tộc, thì sẽ hết sức khó khăn. Để khắc phục hạn chế này, một mặt cán bộ chuyên trách phải tích cực, chủ động tự học tiếng dân tộc, tối thiểu là những từ ngữ phổ biến trong giao tiếp; mặt khác các cơ quan đơn vị phải quan tâm gửi đội ngũ cán bộ này đi học tiếng dân tộc ở các trường trong và ngoài quân đội. Thành thạo tiếng dân tộc là cơ sở để người cán bộ nâng cao hiệu quả công tác vận động đồng bào. Song song với học tiếng dân tộc, cần tập trung và phát huy lực lượng các quân nhân là người dân tộc thiểu số cùng tham gia tiến hành công tác dân vận. Quan tâm bảo đảm kinh phí, phương tiện cần thiết cho lực lượng chuyên trách làm công tác tuyên truyền vận động đồng bào. Đối với các tổ đội, các cán bộ tăng cường cho cơ sở thì phải có kế hoạch kiểm tra, đôn đốc, động viên kết hợp nhắc nhở kịp thời, tránh khoán trắng cho các lực lượng này.
Kết hợp việc tuyên truyền, giáo dục, vận động với tích cực giúp nhân dân lao động sản xuất, ổn định đời sống
Các đơn vị quân đội cần quan tâm, tham gia giúp đỡ đồng bào nghèo, các dân tộc đặc biệt khó khăn giải quyết ngay những vấn đề bức xúc như: tình trạng thiếu lương thực, thiếu nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ, không đủ tư liệu sản xuất, dụng cụ sinh hoạt tối thiểu, cùng địa phương phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho đồng bào; đồng thời, đẩy mạnh vận động đồng bào định canh, định cư, ổn định đời sống. Chú trọng giúp đỡ đồng bào biết tổ chức sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình, tăng cường các hoạt động văn hóa – thông tin, tuyên truyền hướng về cơ sở…
Bên cạnh đó, cần tham mưu cho địa phương xây dựng các dự án, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, phát triển nhanh các khu kinh tế kết hợp với quốc phòng ở các vùng đồng bào dân tộc; quan tâm đầu tư đồng bộ, có trọng điểm vào xây dựng cơ sở hạ tầng ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Giúp địa phương thực hiện các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm, nước sạch. Phối hợp cùng các ban, ngành địa phương thực hiện chương trình xóa mù chữ, giảm tái mù chữ, phổ cập giáo dục, nâng cao trình độ dân trí. Tiến hành các hoạt động văn hóa, duy trì các lễ hội truyền thống, giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc; đồng thời đấu tranh bài trừ các hủ tục văn hóa lạc hậu, đấu tranh phòng ngừa văn hóa xấu độc thâm nhập vào đồng bào các dân tộc.
Trước sự tàn phá của thiên nhiên như lũ ống, lũ quét gây sạt lở nguy hiểm đến tính mạng và tài sản của nhân dân, trong tiến hành công tác dân vận của các đơn vị, phải hết sức coi trọng các biện pháp tích cực chủ động, kiên quyết bảo vệ đồng bào được an toàn cả về tính mạng, tài sản, sự bình yên cuộc sống trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, mọi tình huống. Hướng dẫn, động viên đồng bào biết, chủ động và có khả năng tự bảo vệ mình trước thiên tai khắc nghiệt và các thế lực thù địch, các đối tượng xấu.
Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy và chính quyền địa phương xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh
Nội dung công tác dân vận tham gia xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở phải hướng vào xây dựng thực lực chính trị, nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý Nhà nước của các tổ chức trong hệ thống chính trị địa phương. Hoạt động dân vận của các đơn vị phải góp phần xây dựng thế trận và tiềm lực quốc phòng – an ninh ở cơ sở, xây dựng khu vực phòng thủ và các phương án tác chiến trên từng địa bàn, từng cơ sở. Đẩy mạnh tuyên truyền vận động nhân dân nâng cao cảnh giác, chủ động ngăn ngừa và xử lý kịp thời các vụ việc nảy sinh, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng dân chủ, nhân quyền, tôn giáo và dân tộc, gây chia rẽ đoàn kết quân dân của các thế lực thù địch.
Tham gia củng cố, xây dựng các tổ chức cơ sở đảng vững mạnh là vấn đề cốt lõi để nâng cao hiệu lực thực tế của công tác dân vận; đồng thời tích cực tham gia xây dựng, củng cố tổ chức chính quyền ở cơ sở vững mạnh đủ sức quản lý, điều hành mọi hoạt động của địa phương, bảo đảm chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Các tổ đội công tác kịp thời phát hiện và đánh giá đúng những mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ đồng bào, tham mưu giúp chính quyền và cùng chính quyền giải quyết tốt các mâu thuẫn đó. Tăng cường xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa cấp ủy đảng, chính quyền, đơn vị và nhân dân, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ của địch.
Ngoài ra, cần tham gia xây dựng các tổ chức đoàn thể vững mạnh, đẩy mạnh hoạt động kết nghĩa giữa đơn vị với các tổ chức địa phương nhằm trao đổi kinh nghiệm và có điều kiện giúp đỡ địa phương đẩy mạnh các phong trào quần chúng, góp phần tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân dân. Tham gia xây dựng, vận động phát huy mặt tích cực của các thiết chế văn hóa xã hội truyền thống của đồng bào các dân tộc, cùng thực hiện tốt chủ trương, kế hoạch, phong trào, các cuộc vận động của địa phương.
Để tăng cường công tác dân vận của Quân khu ở các vùng dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới, cần vận dụng đồng bộ và có trọng điểm các giải pháp nêu trên. Mỗi giải pháp có vị trí, vai trò riêng, có cơ sở lý luận và thực tiễn, yêu cầu và nội dung khác nhau, nhằm tác động trên từng mặt, từng mức độ, song các giải pháp là một hệ thống có quan hệ chặt chẽ. Vì vậy, quá trình vận dụng tránh hiện tượng tách rời, hoặc cứng nhắc mà phải vận dụng đồng bộ, có trọng tâm trọng điểm, linh hoạt, coi trọng chất lượng, hiệu quả, góp phần thúc đẩy công tác dân vận của Quân khu ở các vùng dân tộc thiểu số thường xuyên được tăng cường và đi vào chiều sâu, vững chắc, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới.
_______________
1, 2. Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 152- NQ/ĐUQSTW của Quân ủy Trung ương Về tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác dân vận của LLVT Quân khu trong thời kỳ mới (2003 – 2013), tr.4, 5.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 395, tháng 5-2017
Tác giả : NGUYỄN VIỆT KHOA – NHỮ QUANG THỊNH
Bài viết cùng chủ đề:
Năng lực phản biện khoa học của giảng viên trong nhà trường quân đội
Thế giới quan và phương pháp luận của giảng viên trẻ trong các trường quân đội
Sự chuyển đổi sinh kế của người dân nà lầu, lạng sơn