Chính sách văn hóa là một
trong năm phương thức quản lý
nhà nước về văn hóa với các
công cụ của nó. Các công cụ này
đã được các cơ quan quản lý văn
hóa vận dụng trong bối cảnh
hiện nay ở một số địa phương để
nghệ thuật biểu diễn có điều kiện
phát triển thành một ngành công
nghiệp văn hóa ở nước ta. Bài
nghiên cứu đề cập đến việc đổi
mới chính sách văn hóa trong
quản lý nhà nước về nghệ thuật
biểu diễn ở nước ta hiện nay.
Trong giai đoạn phát triển mới, Đảng và Nhà nước ta chú trọng phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Cũng theo xu hướng đó, nghệ thuật biểu diễn, một trong các ngành công nghiệp văn hóa, cũng nhận được nhiều sự quan tâm, chú ý. Tuy vậy, thời gian qua, có một thực tế là ngành nghệ thuật biểu diễn đang gặp nhiều khó khăn, một phần là do cơ chế, chính sách. Để khắc phục điều này, nhà nước ta đã và đang đổi mới quản lý nhằm tạo điều kiện cho nghệ thuật biểu diễn phát triển mạnh mẽ, đúng hướng.
Về các ngành công nghiệp văn hóa
Trong Nghị quyết số 33-NQ/TW (9-6-2014) của Hội nghị lần thứ 9 BCHT.Ư Đảng (khóa 11) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã chỉ rõ: Phát triển công nghiệp văn hóa nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng và giá trị đặc sắc của văn hóa Việt Nam, khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới; có cơ chế đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hóa; tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp văn hóa văn nghệ, thể thao và du lịch thu hút các nguồn lực xã hội để phát triển, đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường văn hóa và công nghiệp văn hóa.
Các ngành công nghiệp văn hóa là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước ta chủ trương phát triển các ngành công nghiệp văn hóa có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, phát huy được lợi thế của Việt Nam, phù hợp với các quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường gắn với việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, góp phần bảo vệ, phát huy bản sắc dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế.
Mục tiêu chung phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta bao gồm: quảng cáo, kiến trúc, các phần mềm và các trò chơi giải trí, thủ công mỹ nghệ, thiết kế, xuất bản, thời trang, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, truyền hình và phát thanh, du lịch văn hóa sẽ trở thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, phát triển rõ rệt về chất và lượng, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm thông qua việc sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm, dịch vụ văn hóa đa dạng, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của người dân trong nước và xuất khẩu; góp phần quảng bá hình ảnh đất nước con người Việt Nam, xác lập được các thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa; ưu tiên phát triển các ngành có nhiều lợi thế, tiềm năng của Việt Nam (Quyết định số 1755/ QĐ-TTg ngày 8-9-2016 “Phê duyệt xây dựng chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”).
Tiết mục biểu diễn trong chương trình nghệ thuật Mùa xuân dâng Đảng tại Nhà hát Lớn Hà Nội
Ảnh: Văn Chính
Hoạt động nghệ thuật biểu diễn là hoạt động tạo ra những sản phẩm được định hình dưới dạng văn bản, âm thanh, hình ảnh, để truyền đạt trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các phương tiện kỹ thuật tới công chúng dưới các hình thức biểu diễn nghệ thuật; lưu hành bản ghi âm, ghi hình có nội dung biểu diễn nghệ thuật. Loại hình nghệ thuật biểu diễn bao gồm sân khấu, âm nhạc, múa và các hình thức diễn xướng dân gian từ truyền thống đến hiện đại của Việt Nam và thế giới.
Nghệ thuật biểu diễn trong thời gian gần đây của nước ta đã được coi trọng như một trong các ngành công nghiệp văn hóa, được ưu tiên khuyến khích thu hút các nguồn lực xã hội để phát triển. Mục tiêu định lượng của nước ta năm 2030: phấn đấu doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa nói chung đóng góp 7% GDP, tạo thêm việc làm cho xã hội, trong đó ngành Nghệ thuật biểu diễn đạt 31.000.000 USD. Nhưng chính sách của nhà nước cho lĩnh vực này còn nhiều bất cập, chưa theo kịp sự phát triển thực tiễn.
2. Quản lý nhà nước về văn hóa
Quản lý nhà nước về văn hóa là hoạt động định hướng, cơ bản và quan trọng nhất trong quản lý văn hóa. Quản lý nhà nước về văn hóa là hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương với lĩnh vực văn hóa, là hoạt động thực thi quan điểm, đường lối văn hóa của Đảng và các văn bản pháp luật về lĩnh vực này do các cơ quan lập pháp ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực văn hóa. Đồng thời với việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy, các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương tác động có tổ chức và điều chỉnh trên cơ sở quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội, hành vi hoạt động của con người nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ quản lý hoạt động văn hóa của nhà nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3. Vài nét về các công cụ của chính sách văn hóa
Chính sách văn hóa là một trong năm phương thức quản lý nhà nước về văn hóa. Chính sách văn hóa là sự quản lý chiến lược về văn hóa, là sự quản lý vĩ mô về văn hóa, là điều kiện khung cho các hoạt động văn hóa và đời sống văn hóa của quốc gia, địa phương, cộng đồng.
Chính sách văn hóa được hình thành như một chỉnh thể trong quá trình tác động lẫn nhau của ba nhóm cộng đồng: cộng đồng những nhà hoạt động văn hóa, văn nghệ sĩ; cộng đồng công chúng văn hóa; cộng đồng các nhà quản lý. Chính sách văn hóa không chỉ thể hiện ý chí của cộng đồng các nhà quản lý quốc gia nhằm định hướng cho sự phát triển của nền văn hóa dân tộc mà còn mang tính thực tiễn, căn cứ vào bối cảnh phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, của từng địa phương và vùng miền, các tầng lớp dân cư cụ thể.
Đảng và Nhà nước ta đã nhấn mạnh 6 loại chính sách cho văn hóa cần tập trung hiện thực hóa: Chính sách kinh tế trong văn hóa để vừa bảo đảm được định hướng chính trị, vừa có thêm nguồn lực tài chính cho hoạt động văn hóa; Chính sách văn hóa trong kinh tế, nghĩa là các hoạt động kinh tế phải đảm bảo các tiêu chí của văn hóa, tạo điều kiện nhiều hơn cho văn hóa; Xã hội hóa các hoạt động văn hóa nhằm động viên các nguồn lực của các tầng lớp nhân dân cho hoạt động văn hóa, hoạt động sáng tạo và phổ biến văn hóa; Chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; Chính sách đặc thù ưu đãi hưởng thụ văn hóa cho các đối tượng xã hội; Chính sách hợp tác quốc tế về văn hóa.
Có năm loại công cụ của chính sách văn hóa: pháp luật về văn hóa; cơ chế đầu tư tài chính cho văn hóa; sự phân cấp phân quyền về quản lý và hưởng thụ các giá trị văn hóa; thực hiện dân chủ hóa văn hóa; sử dụng các thành tựu của công nghệ hiện đại trong phổ biến và quản lý các giá trị sản phẩm văn hóa trong đời sống văn hóa và hoạt động văn hóa.
4. Sự đổi mới của chính sách văn hóa trong quản lý nghệ thuật biểu diễn
Khảo sát năm loại công cụ của chính sách văn hóa nói trên, nghiên cứu sự dịch chuyển của chính sách văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn thời gian gần đây, chúng ta nhận thấy có những thay đổi theo hướng tiến bộ, tích cực.
Trước khi Nghị định 144/2020 NĐ-CP về quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật ra đời, Bộ VHTTDL đã tổ chức Hội nghị về công tác này (ngày 27-12-2018). Đây là Hội nghị quan trọng nhằm đánh giá thực trạng quản lý nghệ thuật biểu diễn trong phạm vi cả nước, phân tích những vấn đề nổi cộm và chuẩn bị các phương án xây dựng nghị định mới (công cụ pháp luật về văn hóa). Theo báo cáo của Bộ, các Sở Văn hóa, Thể thao và Sở VHTTDL, các địa phương đã triển khai có hiệu quả công tác quản lý nhà nước về nghệ thuật biểu diễn; tổ chức tốt các hoạt động văn hóa nghệ thuật phục vụ nhân dân, nhất là bà con vùng sâu vùng xa, vùng biên giới hải đảo (công cụ dân chủ văn hóa); biểu diễn giao lưu đối ngoại phục vụ nhiệm vụ chính trị với các chương trình chất lượng nghệ thuật cao. Bộ cũng đã đánh giá khách quan: Bên cạnh những mặt đã làm được, cũng còn một số khó khăn vướng mắc như việc xây dựng dự thảo nghị định mới về nghệ thuật biểu diễn, thông tư quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành nghị định cần nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp với một số nội dung trong các quyết định mới ban hành; tiếp tục rà soát, đánh giá những khó khăn bất cập của chính sách về phổ biến tác phẩm âm nhạc sân khấu là nội dung lớn, nhạy cảm, được dư luận quan tâm. Việc sáp nhập các đơn vị nghệ thuật truyền thống ở địa phương và hợp nhất các đơn vị nghệ thuật chuyển sang hình thức ngoài công lập vào trung tâm văn hóa thành một đầu mối đã phát sinh nhiều bất cập; cơ sở vật chất nhiều đơn vị nghệ thuật biểu diễn xuống cấp trầm trọng; kinh phí đầu tư hạn hẹp (công cụ cơ chế đầu tư tài chính cho văn hóa); khó khăn trong việc đào tạo, tuyển chọn diễn viên, nhạc công nghệ thuật truyền thống; cơ chế chính sách đặc thù cho nghệ sĩ còn chậm (công cụ pháp luật về văn hóa).
Trong Hội nghị này, Lãnh đạo Cục Nghệ thuật biểu diễn đã trình bày các vấn đề như: Đề án xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; Đề án tăng cường công tác sáng tạo và quảng bá đối với các đơn vị nghệ thuật truyền thống trực thuộc Bộ; Nghị định quy định về hoạt động nghệ thuật biểu diễn; xây dựng phần mềm quản lý nghệ sĩ (công cụ ứng dụng công nghệ hiện đại vào quản lý nghệ thuật biểu diễn).
Các nhà quản lý nhà hát, đại diện các Sở VHTTDL địa phương đã đề xuất Bộ, Chính phủ có chế độ chính sách phù hợp với thực tế khi các nghệ sĩ lưu diễn ở vùng sâu vùng xa, biên giới, nhất là các đơn vị nghệ thuật truyền thống thuộc các tỉnh nghèo còn nhiều khó khăn. Một số đơn vị nghệ thuật chưa có rạp biểu diễn, trang thiết bị biểu diễn thiếu đồng bộ, cơ sở vật chất nghèo nàn cần được hỗ trợ kịp thời. Có nhiều kiến nghị về việc duy trì ở mỗi địa phương một đơn vị nghệ thuật truyền thống tiêu biểu cho bản sắc văn hóa nghệ thuật ở địa phương đó; có biện pháp ổn định tâm lý tư tưởng cho viên chức người lao động để các nghệ sĩ yên tâm công tác; đầu tư cơ sở vật chất, nguồn lực tài chính để đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ phục vụ công tác biểu diễn nghệ thuật đối với các đơn vị bị sáp nhập, coi biểu diễn nghệ thuật làm nhiệm vụ trung tâm của đơn vị mới để ngày càng chuyên nghiệp hóa các hoạt động của Trung tâm văn hóa nghệ thuật, đáp ứng nhu cầu văn hóa ngày càng cao của nhân dân. Những vấn đề về xã hội hóa nghệ thuật biểu diễn cũng là nội dung được quan tâm thảo luận tại Hội nghị này.
Năm 2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 144/ 2020/NĐ-CP về hoạt động nghệ thuật biểu diễn. Nghị định có rất nhiều điểm tiến bộ thể hiện sự cởi mở, thông thoáng trong quản lý hoạt động nghệ thuật biểu diễn. Nội dung của Nghị định 144/2020 NĐ-CP có nhiều điểm sửa đổi so với các Nghị định cũ. Ví dụ: đã cắt giảm, đơn giản hóa 5/10 thủ tục hành chính hiện hành. Nhiều thủ tục được cắt giảm như: cấp giấy phép cho người nước ngoài biểu diễn nghệ thuật tại Việt Nam; cấp giấy phép cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; cấp giấy phép tổ chức cuộc thi người đẹp, người mẫu; cấp giấy phép phổ biến tác phẩm âm nhạc sân khấu.
Nghị định đã không quy định số lượng các cuộc thi người đẹp, người mẫu trong năm, mà chỉ cần đáp ứng các quy định của nghị định này và các quy định pháp luật có liên quan. Như vậy, Nghị định 144/2020/NĐ-CP đã tạo hành lang pháp lý mới cho sự phát triển của nghệ thuật biểu diễn ở nước ta hiện nay thể hiện sự đổi mới về chính sách văn hóa.
Về cơ chế đầu tư tài chính cho văn hóa, thời gian qua và hiện nay, thế giới và nước ta đã và đang đối mặt với dịch COVID-19, nhiều đơn vị nghệ thuật ở Hà Nội và các địa phương gặp khủng hoảng về nhân sự, lương bổng, cơ sở vật chất cho hoạt động biểu diễn nghệ thuật. Ví dụ, không có biên chế dành cho nghệ sĩ, diễn viên trẻ. Đầu năm 2021, Nhà hát Kịch Hà Nội chỉ trả được lương trong biên chế, còn lương hợp đồng thì không có. Nhà hát không có rạp để biểu diễn nghệ thuật thường xuyên, đi thuê rạp ở bên ngoài thì mất 200 triệu đồng/ đêm. Xe ô tô để lưu diễn cũng không có. Trang thiết bị âm thanh thì cũ kỹ, hư hỏng. Ví dụ của Nhà hát Kịch Hà Nội chỉ là một ví dụ điển hình. Nhiều địa phương khác cũng lâm vào tình trạng tương tự, nhất là khi sáp nhập các đơn vị. Hội Nghệ sĩ Sân Khấu Việt Nam cũng cho rằng trong thời gian này, sân khấu đang gặp quá nhiều khó khăn đến mức “chạm đáy” bởi các hoạt động biểu diễn nghệ thuật đều bị đình trệ, kế hoạch biểu diễn bị hoãn lại bởi đại dịch.
Những khó khăn, vướng mắc trong vấn đề đầu tư tài chính cho nghệ thuật biểu diễn kể trên không thể tháo gỡ nếu như chúng ta không nhìn nhận trong mối tương quan với công cụ thứ ba của chính sách văn hóa, đó là sự phân cấp, phân quyền trong quản lý và hưởng thụ văn hóa, là sự vận dụng các văn bản quy phạm pháp luật trong điều kiện kinh tế, xã hội của từng địa phương. Các địa phương cần nhạy bén linh hoạt xử lý các vấn đề nổi cộm trong quản lý nghệ thuật biểu diễn. Thời gian gần đây, lãnh đạo Đảng và chính quyền Hà Nội đã có nhiều buổi đối thoại với các đơn vị nghệ thuật biểu diễn để tìm hiểu thực trạng hoạt động, những khó khăn và tìm các giải pháp tháo gỡ (như vấn đề nhân sự, cơ chế đặc thù cơ sở vật chất của các nhà hát). Lãnh đạo thành phố Hà Nội đã phân công Sở Văn hóa, Thể thao Hà Nội làm cơ quan đầu mối của thành phố Hà Nội, phối hợp với các Sở, ban, ngành liên quan, tổng hợp các kiến nghị của các đơn vị nghệ thuật biểu diễn rồi tìm cách giải quyết, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các đơn vị này phát triển, nghệ sĩ diễn viên có thể sống được bằng nghề; yêu cầu các cơ quan thành phố phải tập trung đổi mới về tư duy, tạo bước đột phá về chính sách và các giải pháp thúc đẩy phát triển văn hóa. Trước hết, cần đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Văn hóa, Thể thao sang hoạt động theo cơ chế tự chủ; đổi mới cơ chế thu hút đãi ngộ tài năng. Trước khi ban hành các quyết sách mới, các cơ quan thành phố phải trao đổi kỹ với các nhà hát, trung tâm văn hóa; không phải thực hiện tự chủ là để cho nhà hát, trung tâm văn hóa tự lo hết, mà phải tạo điều kiện cho đơn vị tuyển chọn bổ sung nhân sự nếu còn biên chế. Lãnh đạo Thành ủy Hà Nội đã chỉ đạo tập trung giải quyết ngay những kiến nghị của các đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Văn hóa, Thể thao, trong đó có việc xây dựng nhà hát mới cho một nhà hát chưa có rạp biểu diễn và bố trí rạp biểu diễn cho một nhà hát khác. Như vậy, Hà Nội đã có những đột phá về chính sách và giải pháp thúc đẩy sự phát triển của văn hóa, thể thao Hà Nội, trong đó có chú ý đặc biệt đến nghệ thuật biểu diễn. Đây là cách làm hay của Hà Nội mà các địa phương ở nước ta có thể tham khảo, học hỏi, vận dụng.
Hội Nghệ sĩ Sân Khấu Việt Nam cũng đánh giá tình hình nghệ thuật sân khấu ở nước ta hiện nay và có chủ trương, kế hoạch phát triển nghệ thuật. Cụ thể như Đề án phát triển khán giả cho sân khấu, với các nội dung cơ bản: sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật chất lượng; lôi kéo khán giả trẻ tuổi đến với sân khấu; chú trọng đầu tư đặc biệt cho đội ngũ tác giả, đạo diễn (nhất là đạo diễn trẻ). Hội Nghệ sĩ Sân khấu lập ra Đề án này và phát triển Đề án đến các địa phương thông qua các chi hội sân khấu là một cách làm mới, thực hiện công cụ phân cấp phân quyền trong quản lý và hưởng thụ văn hóa.
Đối với công cụ thứ năm: ứng dụng khoa học công nghệ vào nghệ thuật biểu diễn. Cách đây không lâu, ở Hà Nội, Cục Khoa học Công nghệ và Môi trường phối hợp với Cục Nghệ thuật biểu diễn (Bộ VHTTDL) tổ chức hội thảo khoa học Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật. Tại hội thảo này, các nhà khoa học, các nhà quản lý, các nghệ sĩ đã thống nhất các giải pháp cho phù hợp với tình hình mới của sự phát triển công ngiệp 4.0. Hội thảo nhận thấy cần ứng dụng công nghệ để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về nghệ thuật biểu diễn; cần có giải pháp về nguồn lực nhằm nâng cao chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ hành chính, dịch vụ văn hóa về biểu diễn nghệ thuật đến với nhân dân, đáp ứng xu hướng thúc đẩy hoạt động ứng dụng công nghệ trong biểu diễn nghệ thuật ở nước ta và hội nhập quốc tế.
Nhiệm vụ và giải pháp phát triển nghệ thuật biểu diễn ở nước ta đã được nêu rõ trong quyết định 1755/QĐ-TTg “Phê duyệt chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030”. Trong đó, cần chú trọng phát triển thị trường tác phẩm sân khấu, ca nhạc, chương trình biểu diễn. Bảo tồn và phát huy nghệ thuật truyền thống của dân tộc kết hợp với các loại hình nghệ thuật đương đại, tạo ra nhiều tác phẩm chất lượng cao thể hiện tính sáng tạo, độc đáo của nghệ thuật truyền thống. Khuyến khích, hỗ trợ văn nghệ sĩ tham gia học tập, bồi dưỡng, biểu diễn và các hoạt động khác có liên quan ở nước ngoài. Khuyến khích phát triển các đơn vị nghệ thuật ngoài công lập; đẩy mạnh quyền tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập phù hợp với đặc thù của từng loại hình nghệ thuật. Hình thành các trung tâm biểu diễn nghệ thuật đa năng tại các thành phố lớn. Xây dựng và hoàn thiện chính sách đào tạo nguồn nhân lực; chính sách khuyến khích tài năng, sáng tạo, ưu đãi văn nghệ sĩ; chính sách xã hội hóa nghệ thuật biểu diễn. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng những ngành nghề: đạo diễn, nhạc sĩ, họa sĩ thiết kế sân khấu, nhà sản xuất, nhà kinh doanh, biên kịch, nghệ sĩ biểu diễn, người dẫn chương trình, người mẫu… và mở rộng hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực; hình thành một số thương hiệu có uy tín trong việc tôn vinh các tác phẩm nghệ thuật biểu diễn.
Tóm lại, bằng việc thực hiện năm công cụ của chính sách văn hóa, chúng ta sẽ tạo điều kiện cho nghệ thuật biểu diễn phát triển tốt hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân về văn hóa, góp phần xây dựng các ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta theo đúng đường lối của Đảng, cũng nhằm hoàn thiện chính sách văn hóa.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Tri Nguyên, Văn hóa – Tiếp cận lý luận và thực tiễn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2006.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước số 33-NQ/TW, 9-6-2014.
3. Trần Long, Phó Bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Phong: Hà Nội luôn tạo mọi điều kiện để các đơn vị nghệ thuật phát triển, kinhtedothi.vn, 26-2-2021.
4. Nguyễn Thị Hòa, Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa tại Việt Nam, consosukien.vn, 20-10-2020.
5. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định Phê duyệt chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 số 1755/QĐ-TTg, 8-9-2016.
6. Chính phủ, Nghị định Quy định về hoạt động biểu diễn số 144/2020/NĐ-CP, 14-12-2020.
Tác giả: PGS, TS Phan Văn Tú
Nguồn: Tạp chí VHNT số 464, tháng 6-2021
Bài viết cùng chủ đề:
Festival Huế – Nét đẹp văn hóa dân tộc Miền Trung Việt Nam
Mối quan hệ giữa chính sách văn hóa và sáng tạo trong lĩnh vực nghệ thuật ở nước ta
Ý nghĩa và giá trị thẩm mỹ của biểu tượng cá hóa rồng trong mỹ thuật triều Nguyễn