Văn hóa đối thoại trong phê bình văn chương

Tiếp thu truyền thống

Đang diễn ra tình trạng xa rời truyền thống trong các lĩnh vực hoạt động tinh thần, trong đó có phê bình văn chương. Có một cơn “sốt nhẹ” trong trào lưu tiếp nhận các lý thuyết nhập cảng (chẳng hạn như chủ nghĩa hậu hiện đại – postmodernism). Nhưng rốt cục kết quả không như mong muốn vì rơi vào tình trạng “cũ người mới ta”. Có người nặng lời còn khái quát: “Việt Nam đang là bãi rác của thế giới. Trong đó có rác thải văn hóa là hiểm họa nhất”. Hiện nay có hai luồng ý kiến trái chiều đáng quan tâm về hiện đại hóa văn học. Một (chiếm tỷ lệ cao hơn) cho rằng, quá trình hiện đại hóa văn học (từ những năm 30 TK XX) là do tiếp biến văn hóa/văn học phương Tây (đặc biệt là Pháp). Hai (tỷ lệ ít hơn nhưng đáng quan tâm) cho rằng, đi hết cái dân tộc sẽ gặp cái thế giới. Thực tế sáng tác chứng minh khuynh hướng thứ hai có nghĩa thực tiễn hơn, ưu trội hơn, nhiều thành công hơn. Rõ ràng là các phương pháp phê bình ký hiệu học, cấu trúc, phân tâm, chủ nghĩa hình thức, sinh thái học,… chỉ có tính thời vụ trong khi phê bình truyền thống (kiểu Hoài Thanh) lại tỏ rõ thế thượng phong của nó. Cũng vì khác quan điểm/phương pháp nên trong thực tế phê bình đã diễn ra những “đối kháng”, “cạnh tranh”, “tiêu diệt” lẫn nhau, xét về phương diện văn hóa, là rất đáng quan tâm. Thậm chí đáng báo động.

 Không cần nhìn đâu xa, chỉ cần trở lại các sinh hoạt lành mạnh và phong phú của phê bình văn chương thời kỳ 1900 – 1945 sẽ thấy rất rõ các bậc tiền bối đã ứng xử văn hóa nhau như thế nào khi cầm “ngọn roi phê bình”. Tinh thần/văn hóa đối thoại dân chủ chính là bầu không khí nghề nghiệp cuốn hút và thúc đẩy các nhà văn tham gia hoạt động phê bình một cách sôi nổi. Chẳng hạn nhà văn Hải Triều (1908 – 1954) đã thẳng thắn đối thoại với nhà văn Phan Bội Châu (1867 – 1940) qua bài Cụ Sào Nam giải thích chữ văn học thế là sai lắm. Bài này nhà văn Hải Triều viết năm 1933, lúc đó ông mới 25 tuổi, nhưng cái tư thế đối thoại thật đĩnh đạc trước một vị túc nho tiếng tăm lẫy lừng như Sào Nam Phan Bội Châu. Nhà văn Hải Triều đã thẳng thắn hạ bút phê: “Giải thích chữ “văn học” tiên sanh tách ra làm hai chữ để cắt nghĩa: văn là gì, học là gì. Do đó tiên sanh chia văn của trời là thiên văn, văn của đất là địa văn rồi “mô phỏng văn trời văn đất mà thành ra văn người là nhân văn”. Tiên sanh lại dẫn ra những câu của lời ông thánh đời xưa như: Qua hồ thiên văn, dĩ sát thời biến, kinh thiên vĩ địa viết văn (Nghĩa là: Xem văn trời để xét thời biến; dọc theo trời, ngang theo đất gọi là văn (sic) những câu này tiên sanh có lẽ rút trong Kinh Dịch ra. Cắt nghĩa chữ văn học ngày nay mà đưa Kinh Dịch ra thời làm sao mà trúng cho đặng)… Tiên sanh lại cắt nghĩa qua chữ học. Cũng có ba nghĩa: học là bắt chước, học là cầu cho biết, học là để mà làm. Tôi quả quyết nói rằng cách tiên sanh định nghĩa chữ văn học như thế là sai lầm. Tôi cho rằng giải thích chữ văn học mà lại tách đôi ra để luận từng chữ một, thời làm mất cái nghĩa lý hiện tại của văn học đi. Chẳng khác nào như có người cắt nghĩa chữ kinh tế mà xách cắt nghĩa “kinh” ra một chữ, “tế” ra một chữ; rồi đưa những câu đời ông sơ ma như: kinh bang tế thế, hay kinh tế thế dân,… ra mà trưng chứng thời sai bét cả” (1).

Nguyễn Ái Quốc với tư cách một nhà văn, trong bài Thư trả lời ông H đã viết: “Đứng về mặt phê bình, nghĩ như thế nào tôi xin nói thẳng với ông như thế ấy. Tôi không chắc rằng tất cả những nhận xét của tôi đều sai cả; nhưng xin ông cứ bác bỏ những nhận xét nào ông cho là khó hiểu. Việc trao đổi này sẽ có lợi cho cả hai chúng ta”. Trong bức thư này, trên tinh thần phê bình đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra những ưu, khuyết của tác phẩm có nhan đề Cách mệnh của tác giả H (tức Thương Huyền). Kết thúc, Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh “Tôi đã nói thẳng những ý kiến của tôi về bài viết của ông; và cũng nhân cơ hội này, nêu lên một số vấn đề để thảo luận; mong rằng có thể rút ra từ đó một cái gì để mở rộng thêm kiến thức của tôi. Xin thành thực và nhiệt liệt hoan nghênh tài cao trí lớn của ông. Bất cứ một người lao động nào, dù thông minh đến đâu, đôi lúc cũng có thể sai lầm. Chỉ có những kẻ ngồi không mới không sai lầm mà thôi. Nhưng làm việc mà có sai lầm còn hơn là sợ sai lầm mà khoanh tay ngồi không” (2).

Nhắc lại một vài dẫn chứng như thế để thấy tinh thần/văn hóa đối thoại của người phê bình rất quan trọng, đó là “nói thẳng” nhưng phải “thành thực” và “công bằng”; và bao trùm là tinh thần “cầu thị” – không sợ sai lầm – vì cái hay, cái đúng và cuối cùng là “có lợi” cho cả hai bên (phê bình và được phê bình). Nói cách khác đó là văn hóa đối thoại trong phê bình văn chương của các bậc tiền bối mà chúng ta cần học tập thấu đáo.

Những cuộc tranh luận văn chương trước năm 1945 diễn ra hết sức sôi nổi (chẳng hạn như: “Tranh luận về Truyện Kiều”, “Tranh luận về nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh”, “Tranh luận về dâm hay không dâm” và “Tranh luận về thơ cũ – thơ mới”) đã để lại cho chúng ta những bài học kinh nghiệm quý giá (nội dung cụ thể của các cuộc tranh luận này, theo chúng tôi, đã được trình bày cụ thể và đầy đủ trong công trình của Mã Giang Lân) (3). Chúng tôi thiển nghĩ ôn cố tri tân là một động thái rất cần thiết đối với phê bình văn chương hiện nay.

 

Tập huấn nâng cao nhận thức lý luận và năng lực lãnh đạo, 
quản lý văn học nghệ thuật. Ảnh Thanh Dương Hồng

 

Kinh nghiệm thực tiễn

Cuộc thảo luận (năm 1985) về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu là một ví dụ sát sườn hơn khi bàn về tinh thần/văn hóa đối thoại trong phê bình văn chương (các ý kiến được tập hợp tương đối đầy đủ trong sách do Tôn Phương Lan và Lại Nguyên Ân biên soạn (4)). Cuộc thảo luận này vô hình đã chia làm hai phái trong đánh giá truyện ngắn Nguyễn Minh Châu: phái khen ngợi, khẳng định cũng hết lời và phái phê phán cũng hết lời. Cái đặc biệt của cuộc thảo luận này chính là ở chỗ nhà văn Nguyễn Minh Châu sẵn sàng đối thoại với các ý kiến khen, chê tác phẩm của mình một cách cởi mở và công tâm. Có thể nói không khí của đời sống văn chương những năm 80 TK XX trở nên sôi nổi hơn cũng nhờ vào những hiện tượng độc đáo như Nguyễn Minh Châu và những cuộc đối thoại vô tiền khoáng hậu xung quanh sáng tác của nhà văn. Gần 30 năm sau cuộc thảo luận này chúng ta càng tri nhận được sâu sắc rằng: Nguyễn Minh Châu xứng đáng được gọi là nhà văn “mở đường tinh anh” cho công cuộc đổi mới văn chương Việt Nam thời hậu chiến, càng thấy nhận định về cái gọi là “thành công một nửa” của nhà văn tài năng này, như đã có người phán quyết/quy kết, là không có căn cứ khoa học. Có thể đó là cái nhìn thuần lý trí hay mang màu sắc chính trị thuần túy.

Tiếp sau là sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp gây nóng cho văn đàn Việt Nam thời kỳ đầu đổi mới. Trong sự phê bình sôi nổi sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, độc giả chú ý đến tinh thần/văn hóa đối thoại của nhà văn Hoàng Ngọc Hiến qua bài Tôi không chúc bạn “thuận buồm xuôi gió”. Nhà phê bình với con mắt xanh đã linh cảm và tiên đoán thấy con đường chông gai mà Nguyễn Huy Thiệp sẽ phải bước qua, vì thế lời “chúc” của nhà phê bình có vẻ như “nói ngược” với thói quen cố hữu của số đông luôn chúc người khác “chân cứng đá mềm” hoặc “thuận buồm xuôi gió”, “đầu xuôi đuôi lọt” trên con đường công danh sự nghiệp. Phải mặc nhiên công nhận rằng nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã có những đóng góp không nhỏ tạo nên khí sắc mới mẻ của văn chương đương đại Việt Nam trong bối cảnh hòa nhập khu vực và thế giới. Nhưng cũng cần thẳng thắn nhận xét về yếu tố tự nhiên chủ nghĩa trong văn chương của nhà văn này. Điều đặc biệt là, qua tranh luận về Nguyễn Huy Thiệp, bỗng dưng có người lại được “thêm bạn bớt thù” và có người thì ngược lại. Có người nói quá đi văn chương Nguyễn Huy Thiệp đầy tính khiêu khích và nó lây lan sang cả lĩnh vực phê bình (!?). Tranh luận về Nguyễn Huy Thiệp được tập hợp một cách tương đối đầy đủ trong sách do Phạm Xuân Nguyên (sưu tầm và biên soạn) (5). Hơn một phần tư thế kỷ trôi qua, Nguyễn Huy Thiệp vẫn trụ vững trên văn đàn nhờ chủ yếu vào sáng tác truyện ngắn (dù cho ông viết cả tiểu thuyết, kịch, bình văn, chèo) và trở thành gương mặt sáng giá của văn chương đương đại Việt Nam. Ông có viết tiểu thuyết nhưng không thành công. Trong bài Tiểu thuyết có phải là một nồi lẩu nóng hổi của nghệ thuât? Hay là sự nhầm lẫn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp (6) chúng tôi đã thẳng thắn chỉ ra những bất cập trong nhận thức về văn chương nói chung, tiểu thuyết nói riêng của tác giả. Lập tức nhà văn đã có những phản ứng có thể nói rất thiếu văn hóa với người phê bình mình vốn có lý có tình. Chuyện này văn giới và văn bản đã ghi nhận. Thêm một sự kiện khác còn trầm trọng hơn, khi một tiến sĩ khoa học viết bài phê bình Nguyễn Huy Thiệp thì nhà văn đã “trả đũa” quyết liệt bằng cách viết một truyện ngắn ám chỉ tác giả bài viết. Đây có thể coi là một hành động khiếm nhã ít thấy trong văn chương. Chưa hết, trong bài viết Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn ông còn hạ bút nặng nề “Nhìn vào danh sách gần 1000 hội viên Hội Nhà văn Việt Nam người ta đều thấy đa số đều chỉ là những người già nua không có khả năng sáng tạo, tự phát mà thành danh…”.

Những trường hợp tiêu biểu mà chúng tôi vừa dẫn trên cho thấy một thực tế: văn chương đổi mới đã tạo đà, sức sống cho tinh thần đối thoại cả trong sáng tác, cả trong phê bình vốn trước đó hầu như như chỉ hoạt động trong một “từ trường độc thoại”. Đối thoại đã làm vỡ ra, lộ ra nhiều mảng tối của cả sáng tác, cả phê bình khiến người có tâm huyết với nền văn chương nước nhà không khỏi phân vân, lo âu.

Tăng cường văn hóa đối thoại trong phê bình văn chương

Có thể nói Chân dung và đối thoại của Trần Đăng Khoa đã phát huy tối đa tinh thần/văn hóa đối thoại trong phê bình văn chương đương đại (cuốn sách được tái bản nhiều lần, thiết nghĩ, có cái lý do đích đáng của nó). Trần Đăng Khoa đã xác tín từ đầu: “Càng thông minh, càng khác nhau. Nhưng giữa những người thông mình chỉ có đối thoại, chứ không có cãi vã. Đối thoại khác cãi vã ở chỗ đó, đối thoại là để bổ sung cho nhau, để tự điều chỉnh mình, nhằm tiếp cận chân lý. Còn cãi vã là tranh thắng bại, đúng sai, là dồn nhau vào chân tường, quy chụp và mạt sát nhau, hất tất cả những rác rưởi vào mặt nhau” (7). Trong cuốn sách rất “hot” này, Trần Đăng Khoa đã có những ý kiến thẳng thắn, chân tình và thuyết phục vì “cách nói”. Chẳng hạn Trần Đăng Khoa bác bỏ một cách thấu tình đạt lý luồng ý kiến cho rằng dường như đang có một cuộc cách mạng thơ ca trên văn đàn Việt Nam đương đại: “Tuy nhiên cũng không vì sự lý thú ấy, mà kêu toáng lên rằng, văn chương Việt Nam đã đến kỳ đổi gác, rằng đã xuất hiện một cuộc cách mạng về thơ ca sau thời kỳ Thơ mới. Thực tình tôi rất mong có cuộc cách mạng thi ca ấy. Nhưng thực tế không có. Cuộc cách mạng thi ca ở thời Thơ mới sở dĩ thành công và những vòng sóng của nó vẫn còn lan tỏa đến ta hôm nay, chính là vì nó dựa trên một cái nền rất vững chắc, đó là hàng loạt tác giả lớn, những tác phẩm lớn. Còn cuộc cách mạng thi ca hôm nay thì dựa trên cái gì? (…). Chỉ là sản phẩm dở dang của những cuộc thí nghiệm” (8). Tinh thần/văn hóa đối thoại như là một nhiệt hứng cầm bút của nhà thơ Trần Đăng Khoa trong các bài viết tiêu biểu khác như Tản mạn xung quanh giải thưởng Hội Nhà văn năm 1993, Ngẫu hứng du ngoạn qua giải thưởng Văn nghệ quân đội, Câu chuyện đầu năm, Câu chuyện bên bàn tràCó những ý kiến của Trần Đăng Khoa có thể gây men cho đối thoại sôi nổi, kiểu như: “Có thể có một tác phẩm phê bình hay về một cuốn sách dở và ngược lại” (9).

Gần đây nhất Đối thoại văn chương (10) của Trần Nhuận Minh và Nguyễn Đức Tùng ít nhiều gây được thiện cảm của độc giả, theo chúng tôi, có thể vì tinh thần/văn hóa đối thoại của nó như nhan đề cuốn sách đã xác nhận. Một người bạn (công tác ở Sở VHTTDL Hà Tĩnh) đã nhờ tôi tìm mua giúp cuốn sách này, trước hết là vì cái tên sách mà anh kỳ vọng vào tinh thần/văn hóa đối thoại của phê bình văn chương hiện nay. Đây là một cuốn sách khó đọc vì nó dày (833 trang khổ 14,5 x 20,5) với độc giả bình thường. Nhưng trong văn giới, nếu chịu khó đọc của đồng nghiệp, biết đâu tìm thấy ít ra vài ba điều bổ ích. Sách gồm 9 chương có tựa đề “Đối thoại tháng giêng” đến “Đối thoại tháng cuối” (gồm 265 đối thoại). Có thể nói tinh thần/văn hóa đối thoại trong văn chương, qua cuốn sách này, đã được mở rộng biên độ như Nguyễn Đức Tùng viết trong Thư gửi độc giả (in đầu sách) “Tôi hy vọng rằng cuộc trò chuyện qua nhiều chủ đề văn học, đã diễn ra một cách hào hứng sôi nổi trong gần một năm, không phải là không có lúc gây cấn, nhưng lý thú, giữa hai chúng tôi, nay được ghi lại, sẽ trở thành cuộc trò chuyện giữa chính bạn đọc và nhà thơ Trần Nhuận Minh. Tức là giữa hai phía và nhiều phía, giữa tất cả chúng ta, bao gồm người đọc trong nước và hải ngoại, những người bất chấp một thời kỳ đầy khó khăn của thơ ca, vẫn không ngừng yêu mến nó và ủng hộ một nền thơ Việt Nam đang đi tới, trong sáng, khỏe mạnh, hướng về tương lai” (11). Trong quá trình đối thoại chung quanh rất nhiều vấn đề, ngay từ đầu những người tham gia đã xác định thái độ “Trao đổi thẳng thắn, cởi mở và thân thiện, thuận theo tự nhiên” (Nguyễn Đức Tùng) và “Đúng như anh nói, đây là một cuộc đối thoại thân thiện, và tôi muốn nói thêm: hoàn toàn bình đẳng và tự do… vì văn chương và xoay quanh văn chương” (Trần Nhuận Minh). Theo thiển ý của chúng tôi, qua ý kiến của Trần Nhuận Minh và cũng như nhiều đồng nghiệp khác, có một lối phê bình trong văn chương và một lối phê bình ngoài văn chương (12). Ý kiến của Trần Nhuận Minh về việc Xuân Diệu phê bình chưa trúng thơ Hồ Xuân Hương chẳng hạn, theo chúng tôi, gợi mở một cuộc đối thoại “vô tiền khoáng hậu” về hiện tượng thú vị bậc nhất trong lịch sử văn chương Việt Nam. Thực tình thì từ khi đọc tác phẩm Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (13), trong đó có 110 trang Xuân Diệu dành viết về Hồ Xuân Hương bà chúa thơ nômTính tư tưởng trong ba bài thơ Hồ Xuân Hương, chúng tôi không nghĩ sẽ có ngày có ý kiến phản biện mạnh mẽ và thú vị như Trần Nhuận Minh đã viết đến 20 trang liền (từ tr.119 đến tr.138) trong Đối thoại văn chương. Trừ một vài chỗ khó thẩm định đúng sai thuộc về ai (chẳng hạn câu nhà thơ Xuân Diệu nói với nhà thơ Trần Nhuận Minh: “Có một Hồ Xuân Hương giả mà cả thế giới nó sợ thật, lại không sướng hay sao. Lại còn tìm ra với tìm vào” (14)), còn lại theo chúng tôi, tinh thần đối thoại của nhà thơ Trần Nhuận Minh với quan điểm phê bình của nhà thơ Xuân Diệu về Hồ Xuân Hương bà chúa thơ nôm là khá thuyết phục (vì đây là một hiện tượng được dân gian hóa hơn là một tác giả, một phong cách văn chương).

Văn hóa đối thoại trong phê bình văn chương       

Nếu hiểu văn hóa là thế ứng xử thì văn hóa đối thoại trong phê bình văn chương chính xuất phát từ căn rễ “hiểu mình hiểu người”, nghĩa là hiểu vị thế, tương quan giữa hai bên đối thoại. Nhất thiết không “dĩ hòa vi quý” nhưng nếu bên đối thoại là người “trở cờ” thì cần một mặt vận dụng tinh thần vị tha “đánh kẻ chạy đi không đánh người chạy lại”, mặt khác phải kiên định lập trường phê bình trên cơ sở khoa học. Đối thoại là tranh luận, phản biện để tìm ra chân lý; nhất quyết không thể là nơi chốn để “cãi vã”, “khẩu chiến”, “quy chụp”, thậm chí “hất tất cả rác rưởi vào mặt nhau”, và có lúc có nơi hòng “tiêu diệt” nhau. Thế giới đang chuyển từ “đối đầu” sang “đối thoại”, hà cớ gì văn nhân chúng ta lại không ngồi cùng nhau, bàn thảo cùng nhau các vấn đề thời cuộc, văn chương trên chiếu văn?! Văn hóa chính là phẩm tính căn bản của tinh thần đối thoại trong phê bình văn chương.

Tôn trọng người đối thoại khác chính kiến. Như Trần Đăng Khoa nhận xét “càng thông minh càng khác nhau”. Nhưng cũng có những sự rất khác nhau của những người không thông minh (!?). Thế giới này luôn “đại đồng mà tiểu dị”. Bảy tỷ người là bảy tỷ vân tay. Mỗi cá nhân là một “tiểu vũ trụ”. Tôn trọng người đối thoại chính là tôn trọng mình, trái lại không tôn trọng người đối thoại là không tôn trọng mình. Nhà văn Nguyễn Minh Châu có viết “Ừ thì mỗi người sống và nghĩ một cách, xin đừng giận, ghét nhau vội, khác nhau mà vẫn rất thương được nhau, đấy là luật sống của con người” (15). Trong cuộc thảo luận về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu năm 1985 do báo Văn Nghệ tổ chức, đọc lại sẽ thấy nhà văn rất tôn trọng các ý kiến phê bình (thậm chí có cả những ý kiến chụp mũ, quy kết nặng nề cho tác giả ).

Văn hóa đối thoại trong phê bình văn chương xa lạ với cái gọi là “nhân danh” (như một thứ thời thượng). Trong đời sống đang lây lan căn bệnh “nhân danh” làm rối loạn các giá trị đạo lý. Trong lĩnh vực văn chương cũng vậy: có nhân danh đổi mới (tự nhận mình là tân thời, thậm chí thức thời và cố tình đẩy người khác vào bảo thủ, xác lập chiến tuyến, chia rẽ văn giới); có nhân danh dân chủ (nhằm cổ súy cho phong trào “đạp đổ thần tượng”, thậm chí “nhổ nước bọt vào lịch sử”, đòi tự do tuyệt đối); đặc biệt có nhân danh con người (đề cao sáng tác đi sâu vào bản năng gốc: sex, đồng tính, thác loạn trong vô luân và loạn luân). Gần đây có thêm cái gọi là nhân danh thế hệ (họ dựa vào câu nói của G. Lorca “hãy chôn tôi cùng với cây đàn” rồi đề nghị “thay ca”, “đổi gác” – nghĩa là phải “chôn” luôn Thơ mới, thơ Cách mạng 1945 – 1975… để mở cửa cho các trào lưu ồ ạt xâm nhập vào nước ta như “hậu hiện đại”, “hậu thực dân”, chẳng hạn.

Gần đây trong giới phê bình đang rất hào hứng (chúng tôi gọi là trạng thái “hưng cảm”) với cái gọi là “trung tâm và ngoại biên”, hay còn gọi là thuyết “phi trung tâm hóa”. Có vẻ như “món mới” này có hấp lực. Vì sao như vậy? Vì họ muốn “giải đại tự sự”, đề cao “tiểu tự sự”. Cũng có nghĩa là vô tình hay cố ý đi ra khỏi quỹ đạo của các quy luật chân – thiện – mỹ trong sáng tạo nghệ thuật. Nói cách khác đó là ý đồ đề cao “phi truyền thống” trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ. Sáng tạo nghệ thuật cần đến những khoảng rộng tự do cho mỗi cá tính (nhưng không nên chỉ “giỏi thêu thùa cho bản thân mà kém vá may cho mọi người”). Tất nhiên. Nhưng không thể có tự do vô bờ bến (như kiểu một “chủ nghĩa hiện thực vô bờ bến”). Nếu “văn hóa soi đường cho quốc dân” thì cũng chính văn hóa soi đường cho phê bình văn chương.

_______________

1, 2. Tuyển tập phê bình văn học Việt Nam 1900 -1945, năm tập, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội, 1998, tr.371- 372, 5-19.

3. Những cuộc tranh luận văn học nửa đầu thế kỷ XX, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2005.

4. Nguyễn Minh Châu – Con người & tác phẩm, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992.

5. Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001.

6. Báo Văn hóa, số 951+952, ngày 1-1-2004.

7, 8, 9. Chân dung và đối thoại, tr.192-93, 193-194, 201.

10. Nxb Tri thức, 2012.

11, 14. Đối thoại văn chương, tr.7-8, 138.

12. Phê bình văn chương và phê bình ngoài văn chương, Tạp chí Lý luận phê bình văn học nghệ thuật, số 1, 2012.

13. In lần thứ ba, Nxb Văn học, 1998.

15. Di cảo Nguyễn Minh Châu, Nxb Hà Nội, 2009, tr.471.

 

Tác giả: Bùi Việt Thắng

Nguồn: Tạp chí VHNT số 413, tháng 11 – 2018

 

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *