Bản sắc văn hóa dân tộc trước thách thức hội nhập


Hiện nay, văn hóa Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức đến từ quá trình toàn cầu hóa và sự xâm phạm an ninh văn hóa. Do đó, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế là yêu cầu thiết yếu của sự phát triển, là nhiệm vụ chiến lược, trách nhiệm của toàn xã hội.

1. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam – đa dạng và thống nhất

Tuyên bố thiên niên kỷ của Liên hợp quốc (năm 2000) cho rằng, một xã hội phát triển cần được thể hiện trên 3 phương diện, đó là: tăng trưởng kinh tế bền vững, chất lượng sống của con người được bảo đảm, bản sắc văn hóa dân tộc được bảo tồn, làm giàu và phát huy. Lịch sử phát triển văn hóa nhân loại cho thấy, mỗi nền văn hóa bao giờ cũng ẩn chứa trong đó những tố chất đặc sắc, tạo nên nét riêng của mình, đó là bản sắc. Bản sắc dân tộc là tổng thể các tính chất, đường nét, màu sắc thể hiện trong sự tồn tại, phát triển của dân tộc, trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, là cái bảo đảm cho thế ổn định, trường tồn của một nền văn hóa. Việt Nam là một đất nước có nhiều dân tộc khác nhau, văn hóa Việt Nam là “sản phẩm của quá trình giao lưu ảnh hưởng qua lại lâu dài giữa các tộc người, các nhóm dân cư trong một quốc gia, giữa Việt Nam với các nước láng giềng trong khu vực và ngoài khu vực Đông Nam Á” (1). Về bản chất, văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa cấu thành từ các yếu tố tộc người và địa phương nhưng mang trong mình những nét tương đồng, đặc trưng thể hiện trong diện mạo chung. Điều đó góp phần tạo nên một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng, tạo thành bản sắc vốn có của văn hóa Việt.

Đối với nước ta, “nền văn hóa Việt Nam thống nhất chỉ tồn tại trong văn hóa các dân tộc anh em và thông qua văn hóa các dân tộc. Bất kỳ một hiện tượng nào hay một đặc điểm nào được xem là bản sắc văn hóa dân tộc (bằng cách này hay cách khác) đều thể hiện bản sắc văn hóa Việt Nam” (2). Hay nói cách khác, “văn hóa, về bản chất của nó, là văn hóa tộc người. Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc của văn hóa là bảo đảm cho mọi giá trị của các nền văn hóa tộc người được giao lưu bình đẳng…” (3). Nền văn hóa dân tộc muốn tồn tại, phát triển đòi hỏi phải có bản lĩnh, sự đồng thuận và phải xuất phát từ yêu cầu phát triển của dân tộc, nhu cầu của cuộc sống.

Không chỉ ở hiện tại mà ngay từ xa xưa, trong văn hóa đã tồn tại mối quan hệ giữa các vùng, miền, quốc gia, khu vực. Theo nhà tín hiệu học Umberto Eco: “Ngày nay, chúng ta đang đứng trước biết bao nhiêu nền văn hóa, ngôn ngữ, luận thuyết đủ các loại, tất cả đều khác nhau mà đều đòi hỏi được chú ý tới, có khi bằng phương pháp hòa bình, nhưng cũng có khi bằng súng đạn” (4). Theo ông, “không nên đề cao sự khác nhau giữa các nền văn hóa, nhưng cũng không nên tìm cách khẳng định là có những giá trị phổ biển có thể áp dụng cho toàn thế giới. Vấn đề là hãy để cho các nền văn hóa tiếp xúc với nhau” (5). Trước khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây, Việt Nam có một nền văn hóa dân tộc độc đáo và đặc sắc được xây dựng trên cơ sở nền văn hóa bản địa, có tiếp thu chọn lọc tinh hoa các nền văn hóa từ các nước phương Đông như Trung Quốc, Ấn Độ… Giao lưu văn hóa là một trong những yếu tố có tác động quan trọng đến sự biến đổi văn hóa ở các dân tộc nước ta và các dân tộc thiểu số nói chung hiện nay. Nhiều nhân tố, giá trị văn hóa mới thâm nhập, phát huy tác dụng đến ngôn ngữ, chữ viết, giáo dục, y tế, thói quen, lối sống… của đồng bào các dân tộc. Những nhân tố mới đó góp phần thúc đẩy quá trình giao lưu, ảnh hưởng giữa các dân tộc trên một đất nước, đồng thời củng cố mối quan hệ gắn kết giữa các dân tộc với nhau trên phương diện văn hóa.

2. Một số vấn đề đặt ra trong quá trình hội nhập

Trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh việc phát huy vai trò tích cực, lĩnh vực văn hóa đồng thời xuất hiện nhiều tồn tại, hạn chế và phải đối mặt với nhiều nguy cơ.

Thứ nhất, trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa về kinh tế kéo theo vấn đề toàn cầu hóa về văn hóa. Muốn đa dạng văn hóa nhất thiết phải mở rộng giao lưu, hợp tác với các nền văn hóa trong một quốc gia, khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, việc giữ gìn bản sắc riêng của mỗi dân tộc sẽ khó tránh được các trở ngại. “Thách thức của toàn cầu hóa đối với các giá trị truyền thống ở Việt Nam được tập trung ở vấn đề bản sắc văn hóa… Việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đã đặt ra các vấn đề thống nhất và đa dạng của quá trình toàn cầu hóa và ngược lại…” (6). Đối với nước ta hiện nay, các thế lực thù địch lợi dụng toàn cầu hóa để tiến hành âm mưu chống phá, lợi dụng các vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự nhằm thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình. Qua đó, hòng lôi kéo các phần tử cơ hội trong và ngoài nước để hình thành các nhóm hoạt động núp bóng văn hóa, văn nghệ, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa, nghệ thuật. Việc coi nhẹ các giá trị văn hóa truyền thống, làm thay đổi quan điểm, nhận thức của các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ theo hướng đối lập với quan điểm, tư tưởng của Đảng, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc là vấn đề đáng quan ngại hiện nay.

Thứ hai, do kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn chậm phát triển hơn so với vùng đồng bằng và đô thị, nên việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế. Nếu không kịp thời có những cơ chế, chính sách và nguồn lực xứng đáng dành cho văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số để bảo tồn và phát triển thì những giá trị văn hóa đặc sắc, quý báu của đồng bào dần bị mai một, có nguy cơ biến mất.

Thứ ba, với quá trình đô thị hóa diễn ra một cách nhanh chóng, dòng người di cư từ khắp các vùng, miền có sự chuyển dịch đến các vùng đô thị lớn, đồng thời cũng có hiện tượng di cư đến các vùng kinh tế mới để lập nghiệp. Bên cạnh những nét đặc trưng của văn hóa truyền thống bản địa, quá trình đô thị hóa khiến cho văn hóa, lối sống của các dân tộc thiểu số trở nên thiếu tính ổn định. Quá trình sinh sống xen lẫn, hòa đồng giữa người Kinh và người dân tộc thiểu số đã hình thành xu hướng Kinh hóa. Nhiều người trẻ là đồng bào dân tộc thiểu số theo học các cấp bậc học phổ thông còn ít chú ý đến ngôn ngữ của dân tộc mình, thậm chí có tình trạng lớp trẻ ngày nay biết ít, hoặc không biết nói tiếng dân tộc mình.

Thứ tư, “bên cạnh sự xuất hiện của dòng văn hóa, gia tăng dân nhập cư và hội nhập quốc tế thì lại có xu hướng ngược lại: khôi phục, tôn tạo các yếu tố văn hóa cổ truyền của các dân tộc bản địa… vì mục tiêu phát triển du lịch” (7). Nhiều bản, làng dân tộc chuyển mình trở thành các địa điểm du lịch thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Sự gắn kết giữa tín ngưỡng, lễ hội, du lịch ngày càng trở nên chặt chẽ. Bên cạnh việc phục hồi các lễ hội dân gian truyền thống của dân tộc, nhiều lễ hội mới trở nên phổ biến, gắn với du lịch.

Thứ năm, hội nhập quốc tế mở ra nhiều cơ hội cho Việt Nam phát huy tiềm năng văn hóa, sức mạnh văn hóa. Nhưng đó cũng là một trong những điều kiện để một số thói hư tật xấu của người Việt trỗi dậy, gây cản trở sự phát triển, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Các yếu tố tiêu cực của văn hóa ngoại lai xâm nhập vào Việt Nam bằng nhiều con đường, nhiều hình thức, nhanh chóng gây ảnh hưởng đến an ninh văn hóa Việt Nam. Điều đó khiến cho một bộ phận cán bộ, nhân dân nếu không vững vàng sẽ bị suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, lãng phí, tham ô…, kìm hãm sự phát triển của đất nước.

3. Đề xuất một số giải pháp

Tuyên bố chung của Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa đề ra 4 mục tiêu lớn, đó là: làm cho mọi người thừa nhận vị trí của văn hóa trong phát triển, bảo đảm vị trí của văn hóa được coi trọng một cách thích đáng trong kế hoạch, chính sách và dự án phát triển; Khẳng định và đề cao các bản sắc văn hóa, khuyến khích tài năng sáng tạo và cuộc sống có văn hóa; Mở rộng sự tham gia vào đời sống văn hóa, huy động các lực lượng và khả năng sáng tạo của cá nhân và cộng đồng vì dân chủ và độc lập về trí tuệ; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về văn hóa, khuyến khích thông tin giữa các nền văn hóa và tăng cường tình đoàn kết quốc tế. Theo đó, không chỉ có vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc được đề cao, mà văn hóa còn được đặt ở vị trí trọng tâm của sự phát triển vì con người, vì sự bình đẳng giữa các dân tộc. Nhà thơ, nhạc sĩ Atahualpa Yupanqui cho rằng: “Không có gì là văn hóa đương đại đối lập với văn hóa ngày hôm qua. Chỉ có những giai đoạn, những thời điểm, những tầng văn hóa phát triển trong lòng một nền văn hóa duy nhất thuộc về tất cả mọi người… Nền văn hóa với những chữ đầu viết hoa bao gồm một tổng thể các giá trị làm cho con người lớn lên bên trong và bao quát cả thế giới” (8). Như vậy, đến cuối cùng và đích cao nhất của văn hóa vẫn nhằm phục vụ con người, vì mục tiêu phát triển con người.

Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đại hội VIII của Đảng khẳng định: “Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đậm không chỉ trong công tác văn hóa, văn nghệ, mà cả trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo… sao cho trong mọi lĩnh vực chúng ta có cách tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam” (9). Nghị quyết Đại hội cũng chỉ rõ: “phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc” (10). Đại hội XI thống nhất những quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng và phát triển nền văn hóa thời kỳ đổi mới. Theo đó, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội; nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa. Phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, giữ gìn bản sắc tốt đẹp của dân tộc. Chủ động hợp tác và giao lưu quốc tế về văn hóa, quảng bá văn hóa Việt Nam, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển” (11).

Để bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập, cần chú ý một số vấn đề sau:

Một là, cần có sự lựa chọn đúng, trúng, cụ thể và cần thiết những giá trị di sản văn hóa cần bảo tồn, khuyến khích và tạo điều kiện cho những giá trị cần phát huy. Không phải giá trị văn hóa nào cũng nhất thiết phục hồi và bảo tồn. Những giá trị truyền thống tốt đẹp, phong tục tập quán, lễ hội phù hợp với tinh thần thời đại cần khuyến khích phát huy. Những hủ tục lạc hậu, rườm rà, mang tính phản khoa học, bạo lực… cần chọn lọc, loại bỏ. Đối với nhiệm vụ bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII xác định: đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Cần xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, mở rộng mạng lưới thông tin ở vùng dân tộc thiểu số; thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế xã hội ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Hai là, phát huy vai trò của đội ngũ tri thức bản địa, nguồn nhân lực chất lượng cao cho lĩnh vực văn hóa, tư tưởng. Con người là nhân tố then chốt, quyết định cho sự thành công, thất bại của mọi công việc. Đội ngũ trí thức bản địa không chỉ nắm vai trò lưu giữ, trao truyền các giá trị truyền thống, mà còn giữ vai trò chủ đạo trong các sáng tạo văn hóa, nghệ thuật, các phát minh, sáng kiến, trong lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống. Cần đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho văn hóa; chú trọng đào tạo cán bộ chuyên môn có trình độ cao, có năng lực ngoại ngữ, kỹ năng đối ngoại. Tranh thủ các hoạt động hợp tác trao đổi để đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, công nghiệp văn hóa, kinh doanh văn hóa.

Ba là, Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của phát triển công nghiệp văn hóa. Các nhà hoạch định chính sách và quản lý văn hóa ở Việt Nam xác định việc xây dựng công nghiệp văn hóa tiến hành trong điều kiện thuận lợi của nền kinh tế thị trường, của sự phát triển công nghệ kỹ thuật cao. Tăng cường, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, các sản phẩm văn hóa nghệ thuật, dịch vụ văn hóa, bởi “phát triển các ngành công nghiệp văn hóa sẽ góp phần cơ cấu lại mô hình tăng trưởng, tạo ra những sản phẩm – dịch vụ văn hóa có tính cạnh tranh cao, tạo thêm việc làm ổn định, đóng góp tích cực cho nền kinh tế. Đây cũng là chiến lược để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (12). Xây dựng, củng cố, hoàn thiện các thiết chế văn hóa; bảo đảm quyền làm chủ của người dân trong hưởng thụ văn hóa.

Bốn là, đẩy mạnh hoạt động truyền thông quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới bằng nhiều hình thức. Mục tiêu nhằm quảng bá các giá trị văn hóa của dân tộc, làm lan tỏa các giá trị đó, bởi “truyền thông giao lưu văn hóa trở thành sợi dây kết nối văn hóa dân tộc với văn hóa nhân loại, làm cho tinh hoa văn hóa dân tộc trở thành một mạch nguồn của văn hóa nhân loại, đồng thời, truyền thông cũng dẫn dòng để tinh hoa văn hóa nhân loại đến với văn hóa dân tộc” (13).

Hai nhiệm vụ giữ gìn, bảo tồn và phát huy, phát triển văn hóa dân tộc phải đi liền với nhau. “Bảo tồn văn hóa dân tộc không có nghĩa là ôm khư khư vốn cổ không cho nó thay đổi, trái lại phải luôn luôn làm cho nó lớn mạnh hơn, giàu có hơn, bổ sung cho nó những yếu tố mới, tức là phải phát triển nó” (14). Cần tận dụng thành tựu và các mặt tích cực của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong lĩnh vực văn hóa nhằm làm giàu vốn tri thức cho con người, song song đó cần giữ vững cốt cách, tâm hồn, phẩm giá, khí phách con người Việt Nam trong xây dựng nền văn hóa dân tộc trước các tác động tiêu cực.

_______________

1. Ngô Đức Thịnh, Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2006, tr.23

2. Thành Duy, Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa văn hóa Việt Nam – mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.220-221

3, 6. Đỗ Huy, Nhận diện văn hóa Việt Nam và sự biến đổi của nó trong TK XX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.153, 92-93.

4, 5, 8. Những vấn đề xuyên thế kỷphỏng vấn các nhà hoạt động khoa học, giáo dục, văn hóa nghệ thuật hàng đầu thế giới, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2016, tr.130-131, 77, 80.

7. Hoàng Bá Thịnh, Đô thị hóa và phát triển vùng Tây Nguyên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2016, tr.281.

9. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.30, 111.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.303

12. tapchicongsan.org.vn

13. Lê Thanh Bình, Vũ Trọng Lâm: Truyền thông giao lưu văn hóa với vấn đề bảo vệ lợi ích và an ninh văn hóa quốc gia, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2015, tr.51

14. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP.HCM, TP.HCM, 1996, tr.626.

 

Tác giả: Nguyễn Thị Phương

Nguồn : Tạp chí VHNT số 410, tháng 8 – 2018

 

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *