Xã Thanh Bình thuộc huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai là địa bàn sinh sống của 11 dân tộc, cư trú tại 11 thôn bản, trong đó: dân tộc Nùng chiếm 44%, dân tộc Mông 20,6%, dân tộc Tu Dí (còn có tên khác là Bố Y) 12,2%, dân tộc Dao 10,7%, các dân tộc khác chiếm 12,5%. Cũng như nhiều tộc người khác, hôn nhân là một sinh hoạt xã hội, có ý nghĩa quan trọng trong chu kỳ đời người của mỗi thành viên gia đình và cộng đồng người Tu Dí, góp phần quan trọng tạo nên giá trị, bản sắc tộc người. Đây là dấu mốc quan trọng phản ánh những tập tục trong tìm hiểu của đôi trai gái, quan niệm về xây dựng gia đình, hạnh phúc của cộng đồng gắn với nhiều nghi thức.
1. Một số biến đổi trong hôn nhân
Trong những năm gần đây, đời sống của người Bố Y trên địa bàn tỉnh Lào Cai đã có nhiều thay đổi, đặc biệt là các làng người Bố Y nằm gần thị trấn, thị tứ, ven các tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ trong đó có người Tu Dí ở xã Thanh Bình, huyện Mường Khương. Đời sống kinh tế của các hộ gia đình ngày được càng nâng cao, đặc biệt sự hội nhập, giao lưu văn hóa giữa các dân tộc ngày càng được mở rộng. Bởi vậy, nhiều yếu tố văn hóa mới, đặc biệt là văn hóa của người Kinh đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống văn hóa của người Bố Y. Nhiều phong tục tập quán truyền thống của người Bố Y trước đây đã có những biến đổi nhất định. Trong đó, nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở xã Thanh Bình, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai cũng đã và đang dần dịch chuyển từ khuôn mẫu truyền thống sang hiện đại và ngày càng diễn ra trên một phạm vi rộng lớn với tất cả các dân tộc.
Biến đổi quan niệm về hôn nhân
Từ khi Luật Hôn nhân và Gia đình được ban hành, hôn nhân đã được điều chỉnh bằng thiết chế của luật pháp. Vì vậy, tệ nạn tảo hôn, ép duyên đã dần được khắc phục và loại bỏ. Nam nữ các dân tộc được tự do hơn trong tình yêu, hôn nhân. Hơn nữa, cơ sở hạ tầng, giao thông, phương tiện thông tin, giáo dục ngày càng được mở mang nên sự giao lưu giữa nam nữ khác thành phần tộc người đã không còn bị cách trở, cấm đoán như trước kia. Đây là điều kiện để nam nữ thanh niên các dân tộc nói chung và người Tu Dí nói riêng tăng cường giao lưu, kết bạn, tiếp thu văn hóa của các tộc người khác… dẫn đến thay đổi các quan niệm về tập quán hôn nhân. Do đó, phần lớn các cuộc hôn nhân của họ đều có quá trình và thời gian tìm hiểu, yêu thương nhau.
Trước hết, quan niệm cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy đã mờ dần, thay vào đó là sự tự do tìm hiểu của đôi trai gái và nhận được sự tôn trọng của cha mẹ. Trước đây, do điều kiện cuộc sống của người Bố Y còn nhiều khó khăn, họ ít có cơ hội giao lưu rộng rãi, các hoạt động sinh hoạt văn hóa tinh thần còn nhiều hạn chế. Chính vì thế, các chàng trai, cô gái ít có cơ hội gặp gỡ, giao duyên tâm sự để tìm người bạn đời cho mình. Họ chủ yếu gặp nhau vào các ngày lễ, tết, ngày hội của làng hay vào các buổi chợ phiên, làm giúp anh em bạn bè. Cùng với đó là tập quán kín đáo, dè dặt trong cách thể hiện tình cảm của mình với người bạn khác giới, ngay cả khi hai người đã nhận lời ước nguyện với nhau, nên khi muốn đi chơi đâu đó, chàng trai phải rủ một số người bạn đi cùng, họ hầu như không đi tách thành đôi, chỉ đến khi hai gia đình đã thực sự đồng ý thì chàng trai, cô gái mới công khai với mọi người. Còn ngày nay, các chàng trai, cô gái Bố Y đã tự do, mạnh dạn hơn, họ tự lựa chọn cho mình một người bạn đời phù hợp, chỉ có một số trường hợp không tự tìm được vợ (chồng) thì bố mẹ, anh chị em trong gia đình mới tìm hộ.
Bên cạnh đó, do có sự tuyên truyền của các cấp, các ngành ở địa phương, nhất là sự quan tâm của các ban ngành như: Hội Phụ nữ, đoàn Thanh niên… tới từng hộ gia đình và từng cá nhân, đã làm cho sự hiểu biết của mọi người về luật Hôn nhân và Gia đình dần được nâng cao, kết hôn sớm đã giảm đi ở người Tu Dí. Mặt khác, hiện nay do nam nữ thanh niên người Tu Dí có trình độ học vấn cao hơn trước, nên đã ý thức được việc kết hôn sớm sẽ ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống tương lai.
Trước đây, quan niệm và nguyên tắc hôn nhân của người Tu Dí chỉ muốn kết hôn với người đồng tộc, ngày nay xu hướng này đã dần thay đổi. Đó là do sự tác động của việc giao lưu, hội nhập, sinh sống đan xen giữa các dân tộc, đã có nhiều trường hợp người Tu Dí ở xã Thanh Bình nói riêng và ở huyện Mường Khương nói chung kết hôn với người Kinh, người Giáy… Khi các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội mở rộng ngày càng phát triển theo xu hướng liên vùng và xuyên vùng miền, thậm chí xuyên biên giới quốc gia thì các dân tộc ngày càng có xu thế xích lại gần nhau hơn, từ đó nảy sinh nên các mối quan hệ hôn nhân hỗn hợp là tất yếu. Chính vì vậy, bức tranh văn hóa các dân tộc ngày càng phong phú và đa dạng, trong đó có văn hóa hôn nhân của người Tu Dí ở xã Thanh Bình, huyện Mường Khương.
Bên cạnh đó, quan niệm về tiêu chuẩn đối với người bạn đời đã thay đổi. Sự thay đổi nhiều mặt của đời sống xã hội đã góp phần không nhỏ tới việc lựa chọn bạn đời của giới trẻ. Ngoài các tiêu chuẩn trước đây như khỏe mạnh, biết chăm lo cuộc sống gia đình, có khả năng sinh đẻ… hiện nay, có bổ sung thêm như phải hiểu biết rộng, có trình độ học vấn, công tác trong các cơ quan nhà nước hoặc nghề nghiệp phải ổn định… Đó là những lựa chọn thể hiện sự thay đổi về quan niệm trong hôn nhân của thanh niên Tu Dí.
Biến đổi nghi lễ trong hôn nhân
Trước đây, để đi đến lễ cưới chính thức, phải trải qua rất nhiều bước khác nhau, nhưng ngày nay nhiều thủ tục đã được lược giảm. Một lễ cưới thông thường nhà trai phải cử bà mối đến nhà gái 3 lần thay vì 6 lần như trước đây. Lần đầu tiên là sau khi chàng trai và cô gái đã ưng thuận, muốn đi đến hôn nhân. Bố mẹ chàng trai nhờ bà mối sang nhà gái hỏi xem nhà gái có đồng ý không và hẹn một ngày nào đó sang xin lá số lục mệnh ghi ngày sinh tháng đẻ của cô gái để gia đình nhà trai về so tuổi xem có hợp với tuổi con trai mình không. Lần tiếp theo là đến thông báo cho gia đình nhà gái, đồng thời hỏi những yêu cầu của nhà gái về đồ sinh lễ để nhà trai về chuẩn bị, sau đó đến lễ cưới chính thức.
Các nghi lễ chính trong lễ cưới ít có sự biến đổi, hầu hết họ vẫn làm theo phong tục truyền thống, tuy nhiên các nghi lễ đều được rút ngắn, phần lớn đều do các thày cúng thực hiện. Lễ vật, đồ thách cưới cũng có biến đổi. Trước đây, gia đình nhà gái thường thách cưới rất nhiều với ý nghĩa để trả công nuôi dưỡng, giáo dục của bố mẹ. Đồ lễ cưới gồm đồ trang sức, quần áo, vải, thực phẩm, tiền… nhưng ngày nay tập quán thách cưới đã bớt nặng nề hơn trước, số lượng các loại tiền trả công cho bố mẹ cô dâu được giảm đi, quần áo nhà trai phải chuẩn bị cho cô dâu trước là 12 bộ thì nay được quy ra tiền mặt tương đương với 6 bộ quần áo.
Hiện nay, do ảnh hưởng của các dân tộc chung sống đan xen, đã mở ra những dịch vụ chuyên phục vụ đám cưới, đám hỏi, cho thuê phông bạt, bát đũa, bàn ghế và thậm chí có cả loa đài, ti vi, người dẫn chương trình, do đó, gần đây, đám cưới người Tu Dí ở xã Thanh Bình ít có đám nào thổi kèn Pí Lè như trước mà thay vào đó là nhạc sống, loa đài, âm ly. Có thể nói, với nền kinh tế thị trường, cuộc sống người dân Tu Dí nói chung ngày càng được cải thiện nhưng bên cạnh đó, những đặc trưng bản sắc văn hóa tộc người trong đám cưới chắc chắn sẽ dần bị mai một.
Cô dâu, chú rể không còn cưỡi ngựa rước dâu như trước đây mà tùy vào điều kiện kinh tế, giao thông của từng gia đình mà họ đi bộ, xe máy hoặc ô tô. Những biến đổi này là tất yếu và tiến bộ, thể hiện sự đi lên của cuộc sống ở vùng người Tu Dí.
Trang phục được mặc trong ngày cưới hiện nay đã biến đổi khá nhiều và rõ nét ở cô dâu, chú rể và cả những người tham dự lễ. Nếu như trước đây, cô dâu, chú rể mặc trang phục truyền thống thì ngày nay ở nhiều lễ cưới, khi tiếp khách, họ chuyển sang mặc váy, com lê. Tuy nhiên, khi làm lễ trước tổ tiên bắt buộc cô dâu, chú rể vẫn mặc trang phục truyền thống. Nhiều tục lệ trong lễ cưới như việc bưng nước rửa chân cho bố mẹ chồng, các bác bên nhà chồng như trước đây cũng không còn. Tục lễ tặng tặng phẩm trong ngày cưới như khăn, áo, váy, đựu như trước đây cũng giảm và thay vào đó là tặng bằng tiền. Số tiền mừng sẽ được dùng để chi trả trong đám cưới.
Những biến đổi trong lễ cưới của người Bố Y cũng là xu hướng biến đổi chung trong phong tục cưới xin của đồng bào các dân tộc khác trong vùng, khi mà các hoạt động giao lưu văn hóa giữa các dân tộc ngày càng phổ biến. Sự biến đổi này đã giúp cho các dân tộc gần gũi nhau hơn, một số phong tục tập quán không còn phù hợp đã được loại bỏ, thay vào đó là các yếu tố phù hợp với đời sống sinh hoạt văn hóa của cộng đồng. Tuy nhiên sự biến đổi cũng dẫn đến mất dần nhiều giá trị văn hóa truyền thống của người Bố Y, nếu cộng đồng không có ý thức gìn giữ, bảo tồn.
2. Nguyên nhân của sự biến đổi
Sự thay đổi nhận thức của chủ thể văn hóa
Có thể nói, nguyên nhân chủ quan chủ yếu tập trung vào sự biến đổi nhận thức của chính bản thân thế hệ trẻ người Tu Dí về hôn nhân và cưới xin. Vấn đề này được thể hiện rõ nét ở quan niệm hôn nhân, tuổi kết hôn, quan niệm về vợ chồng, nghi lễ, lễ vật… Người dân Tu Dí đã dần nhận thức được tác hại của việc ép duyên, họ cũng biết được kết hôn sớm sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và có thể bỏ lỡ nhiều cơ hội, vận may để thay đổi cuộc đời. Vì vậy, lớp trẻ người Tu Dí ở xã Thanh Bình hiện nay ngày càng quan tâm hơn đến việc học hành, nhất là công việc làm ăn của mình khi quyết định kết hôn.
Nếu như những nguyên nhân khách quan như chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, sự phát triển kinh tế xã hội… tạo điều kiện cho sự biến đổi văn hóa hôn nhân của người Tu Dí ở xã Thanh Bình, huyện Mường Khương thì nguyên nhân từ phía chủ thể văn hóa hay cụ thể hơn là sự lựa chọn của người Tu Dí chính là tiền đề, yếu tố quyết định đến sự biến đổi trong hôn nhân của họ.
Tác động của sự phát triển kinh tế
Là huyện biên giới, Mường Khương có điều kiện thuận lợi trong việc xây dựng và điều chỉnh các quy hoạch cho phù hợp với xu thế phát triển tiên tiến. Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật từng bước được cải thiện, mạng lưới giao thông, lưới điện, bưu chính viễn thông, phát thanh truyền hình, trường học, bệnh viện… được đầu tư phát triển, đáp ứng yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế xã hội của các dân tộc ở huyện Mường Khương nói chung và người Tu Dí xã Thanh Bình nói riêng. Chính đội ngũ cán bộ công chức, kỹ thuật, công nhân, giáo viên, lao động thủ công, làm công tác nghiên cứu khoa học, trong đó có con em đồng bào các dân tộc nói chung, của người Tu Dí nói riêng, không chỉ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế văn hóa của đồng bào mà còn tạo điều kiện mở rộng giao lưu, làm phá vỡ các quan niệm cũng như nguyên tắc hôn nhân nội tộc của lớp trẻ là người dân tộc thiểu số.
Cơ chế thị trường cũng đã tác động đến tư duy kinh tế của người Tu Dí nơi đây. Tư duy truyền thống của một nền kinh tế tự cung, tự cấp đã dần thay đổi sang nền kinh tế thị trường. Chợ trung tâm và các chợ nhỏ (tại các xã, bản) mọc lên nhiều, hàng hóa phong phú, mua bán sầm uất đã tạo nên bước chuyển biến mới về kinh tế của đồng bào Tu Dí. Đồng thời cũng tạo ra giao lưu kinh tế và văn hóa giữa các tộc người trong vùng, giữa miền núi và miền xuôi. Thêm vào đó, với lợi thế là huyện biên giới tiếp giáp với Trung Quốc, người Tu Dí tại xã Thanh Bình còn thường xuyên mua bán, trao đổi, giao lưu văn hóa với các dân tộc bên kia biên giới.
Tác động của yếu tố văn hóa xã hội
Sự giao lưu văn hóa trong khu vực và quốc tế thời kỳ mở cửa, hội nhập, cùng với sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là sự xuất hiện của internet… đã và đang tác động không nhỏ đến đời sống văn hóa tinh thần trong đó có các nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở xã Thanh Bình, huyện Mường Khương. Thông qua cách tiếp nhận các giá trị văn hóa mới, người Tu Dí có điều kiện để so sánh, chọn lọc, cách tân, cải tiến phong tục tập quán cho phù hợp với điều kiện mới mà vẫn không đánh mất bản sắc văn hóa của dân tộc. Thông qua các phương tiện truyền thông, đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc trong huyện, trong đó có người Tu Dí đã được nâng cao rõ rệt, góp phần nâng cao dần nhận thức của họ về văn hóa hôn nhân, nhất là làm thay đổi về quan niệm liên quan đến tuổi kết hôn, quyền quyết định kết hôn, hình thức tổ chức lễ cưới…
Tác động của các chủ trương, chính sách
Nguyên nhân căn bản và sâu sắc nhất dẫn đến sự biến đổi về phong tục tập quán nói chung và trong hôn nhân của người Tu Dí nói riêng chính là sự tác động của các chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước, kết hợp với công tác tuyên truyền sâu rộng đến với mọi tầng lớp nhân dân về thực hiện xây dựng nông thôn mới và nếp sống văn hóa mới. Các chủ trương, chính sách ấy đã thực sự đi vào cuộc sống của người dân, có sức mạnh to lớn làm chuyển biến mạnh mẽ quan niệm của người dân về nhiều mặt của cuộc sống và văn hóa. Văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số được coi trọng và khơi dậy, bản sắc văn hóa của các dân tộc được chú ý gìn giữ, bảo tồn và phát huy thông qua nhiều hình thức hoạt động. Việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở vùng dân tộc thiểu số nói chung có bước phát triển, các thiết chế văn hóa cơ sở bước đầu được xây dựng, cơ sở vật chất và phương tiện kỹ thuật được trang bị, nội dung hoạt động văn hóa thông tin cơ sở ngày càng phong phú và phù hợp hơn, đội ngũ cán bộ được quan tâm bồi dưỡng, mức hưởng thụ về văn hóa tinh thần được cải thiện…
Dưới chế độ phong kiến, hôn nhân của người Tu Dí nói riêng và các dân tộc thiểu số nói chung, đều do luật tục điều chỉnh, bắt buộc mọi thành viên phải tuân theo. Ngày nay, chế độ xã hội chủ nghĩa đã mở ra một bước phát triển mới cho hôn nhân và gia đình các dân tộc ở nước ta, trong đó có người Tu Dí ở xã Thanh Bình, huyện Mường Khương. Hôn nhân và gia đình được Nhà nước Việt Nam bảo vệ và được ghi trong Hiến pháp, đảm bảo quyền con người, quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959, trên cơ sở nam nữ bình đẳng trong việc thực hiện quyền kết hôn cũng như ly hôn theo quy định của pháp luật đã có sự tác động nhất định đến tập quán hôn nhân của các dân tộc ở nước ta, trong đó có người Tu Dí.
Do các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với các dân tộc thiểu số có phần ưu tiên nên đã dần xuất hiện tình trạng đứa con khi ra đời có quyền lựa chọn theo thành phần dân tộc của bố hoặc mẹ. Do vậy, hiện nay có những dòng họ của người Kinh bắt đầu xuất hiện trong các dân tộc thiểu số.
Như vậy, sự biến đổi về quan niệm trong hôn nhân, nghi lễ hôn nhân cũng như việc gia tăng các trường hợp hôn nhân đa tộc người của cộng đồng người Tu Dí ở xã Thanh Bình, huyện Mường Khương đã tạo ra các mối quan hệ gia đình, dòng họ, cộng đồng ngày càng rộng mở. Đây là một trong những biểu biện mà người Tu Dí thích ứng với quá trình giao lưu và phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội của một tỉnh vùng Tây Bắc nói riêng và của đất nước nói chung trong giai đoạn hiện nay.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 398, tháng 8-2017
Tác giả : LƯU THỊ THANH HUYỀN
Bài viết cùng chủ đề:
Đời sống văn hóa gia đình của người lao động di cư từ nông thôn ra đô thị và khu công nghiệp
Đám cưới của người tày ở xã tô hiệu, bình gia, lạng sơn
Tập quán và nghi lễ sinh đẻ của người việt tổ dân phố nhân mỹ, phường mỹ đình 1, nam từ liêm, hà nội