1. Đặc điểm thể loại
Kinh, kệ, canh, than đều có văn bản và được sử dụng trong nghi lễ cầu siêu như một nguyên tắc bắt buộc. Nội dung các văn bản này thể hiện bằng cách phối hợp cùng những giai điệu âm nhạc và được gắn kết chặt chẽ với nhau. Giai điệu của mỗi thể loại được sử dụng như một phương tiện để chuyển tải nội dung các điển tích cũng như tôn chỉ của nhà Phật tới người nghe.
Kinh có vai trò quan trọng trong các nghi lễ Phật giáo nói chung và nghi lễ cầu siêu nói riêng. Theo Từ điển Nho – Phật – Đạo, kinh là thuật ngữ của cả Phật giáo và Nho giáo. Riêng Phật giáo: “Kinh là một trong Tam tạng (3 tạng), chỉ các văn hiến ghi chép sự tích điển cố Phật giáo và nội dung thuyết giáo của Phật Đà”(1). Vậy, kinh ở đây được hiểu là kinh sách, học thuyết phản ánh tư tưởng, nhân sinh quan và thế giới quan… của đạo Phật. Phật giáo sử dụng kinh trong các khoa cúng như một quy định bắt buộc.
Kinh được phổ biến bằng nhiều hình thức, như giảng, đọc, nói chuyện, nhưng chủ yếu và thường gặp nhất là tụng trong các ngôi chùa. Về mặt âm nhạc – thanh nhạc, kinh được tụng với nhiều âm điệu khác nhau, tùy theo vùng miền và tông phái. Đây là đặc điểm nổi bật của âm nhạc Phật giáo Việt Nam nói riêng, âm nhạc truyền thống Việt Nam nói chung trong quan hệ gắn liền với văn hóa và ngôn ngữ bản địa. Giai điệu và tính chất âm nhạc của kinh phụ thuộc và chịu ảnh hưởng trực tiếp từ thanh – ngữ điệu trong ngôn ngữ và văn hóa âm nhạc dân gian địa phương. Nói cách khác, kinh thể hiện tính phương ngữ rõ nét. Chẳng hạn, cũng là kinh A di đà, nhưng giữa các sư tăng khu vực Hà Nội và khu vực TP.HCM tụng có âm điệu hoàn toàn khác nhau(2). Các khóa do sư tăng, hòa thượng phía Nam tụng, dễ nhận thấy phảng phất âm điệu của những bài hò sông nước, hay những bài dân ca Nam Bộ. Ngược lại, các sư tăng, hòa thượng ở khu vực Hà Nội tụng lại có âm hưởng dân ca vùng châu thổ sông Hồng.
Kinh được sử dụng trong các nghi lễ cũng như trong thường nhật của Phật giáo. Tại các ngôi chùa, kinh cử hành ba khóa một ngày: buổi sáng, buổi trưa và buổi tối. Buổi sáng, khoảng từ 4 – 5 giờ, các tăng ni thường tụng kinh Thủ lăng nghiêm hội, Bát nhã, Hồi hướng và A di đà; buổi trưa, vào lúc 12 giờ, thường tụng kinh A Di đà, Sám hối; và buổi tối, khoảng từ 6 – 7 giờ, thường tụng A di đà, Huân tu. Trong nghi lễ cầu siêu, kinh sử dụng như một quy định bắt buộc ở hầu hết các khoa, từ cúng độ âm (như tiếp linh, triệu linh, giải oan – cắt kết, chạy đàn – phá ngục), cho tới khoa cúng Phật. Kinh tụng trong nghi lễ này có nhiều bộ, nhưng phổ biến là kinh Di đà, Pháp hoa, Báo ân và kinh Thủy sám.
Nếu kinh được coi như phép pháp nhà Phật, thì canh, ngoài phần ý nghĩa trên, còn là phương tiện tôn vinh Đức Phật, đồng thời kết nối người hành lễ với thần linh. Canh cũng bao hàm một phần nội dung trong các kinh, sử dụng làm phương tiện thứ hai để răn dạy những tôn chỉ và hóa giải đại chúng hướng tới chân lý chung của nhà Phật. Canh chủ yếu được tổng hợp dưới hình thức thơ:
…Tiếp dẫn linh hồn nhiên tuệ cự
Đường đường phố phóng ngọc hào quang
Nam mô dẫn linh hồn Bồ tát Ma ha tát (ba lần)(3)
So với các thể loại thanh nhạc trong nghi lễ cầu siêu, có thể nói, canh là một đặc trưng, diễn ra với một thời lượng lớn trong toàn bộ nghi lễ. So với âm nhạc trong nghi lễ tín ngưỡng khác, thì canh là một hiện tượng âm nhạc độc đáo, một trong những đại diện của âm nhạc nghi lễ Phật giáo.
Canh có hai loại âm điệu với đặc điểm và tính chất đối lập nhau, đó là canh ai và canh lạc. Canh ai, âm điệu buồn, chỉ dùng trong cúng độ âm ở nghi lễ tiếp linh và triệu linh. Canh lạc, âm điệu vui tươi, hoan hỷ, được dùng trong các khoa cúng Phật. Những người hành lễ khu vực Hà Nội cho biết, hiện nay, tại vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng có ba vùng canh với ba phong cách tán khác nhau. Đó là canh Đông (Hải Phòng, Hải Dương, một phần của tỉnh Bắc Ninh và Hưng Yên), canh Nam (Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình), canh Hà Nội (chủ yếu khu vực Hà Nội và một phần của tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên). Tại khu vực Hà Nội, hiện nay, còn bảo lưu được số lượng bài bản canh khá phong phú và đa dạng. Hiện còn khoảng 13 bài canh ứng với tên gọi cụ thể: canh ai, giả tổ (lô hương, xạ nhiệt), chí tâm, phú, hoàng kim, thổng, hãm, giới đinh, dương chi, tả thủ, hồng tự (cửu hồng), đông ba và canh bảo đỉnh (đàn thượng). Trước đây, khu này còn tồn tại ba “lò” canh: Chùa Bộc, Quảng Bá – Tây Hồ và lò chùa Thanh Nhàn.
Cũng có đặc điểm, cấu trúc, tính độc lập tương đối của một thể loại thanh nhạc, kệ thể hiện được tính chất và sắc thái riêng khi gắn kết với canh và kinh. Kệ được xem như là phần mở đầu của bỉ trong quan họ, vỉa chèo…
Kệ là “thể văn Phật giáo… có các loại 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ và 32 chữ. Là văn vần, loại thể tài giống như thơ. Dùng để truyền bá giáo lý Phật pháp”(4). Ở Việt Nam, kệ phổ biến có hình thức 7 từ:
Thân như bóng chớp có rồi không,
Cây cối xuân tươi, thu não nùng.
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông
(Thiền sư Vạn Hạnh (?-1018), Ngô Tất Tố dịch)(5)
Và loại 5 từ:
Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Sứ sứ tức đao binh
(Thiền sư Pháp Thuận (?-991))(6)
Hiện nay, trong nghi lễ cầu siêu ở khu vực Hà Nội phổ biến dùng các cặp câu kệ 7 từ. Kệ chỉ đọc trước khi tụng kinh và tán canh. Mỗi bộ kinh gắn với một bài kệ, mỗi loại canh cũng gắn với một câu kệ. Chẳng hạn, canh phú đi với kệ phú, canh hương đi với kệ hương.
Cùng với canh, than cũng là thể loại có nhiều nét độc đáo. Về nội dung văn bản, than là một dạng văn tế. Ở lễ cầu siêu, than được sử dụng phổ biến trong khoa cúng cắt kết, đàn thượng và khoa triệu linh, thát tấu. Than là những lời kể lể về cái chết khác nhau, được viết theo thể thơ lục bát hoặc lục bát biến thể. Trong nhiều bài than, người ta thường nhắc tới bài Văn tế thập nhị chúng sinh của đại thi hào Nguyễn Du (1765-1822)(7):
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối
Cũng có người sẩy cối sa cây
Có người leo giếng đứt dây…
…Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn siêu phách lạc biết đâu bây giờ ?…
Thông qua thể văn này, cùng với âm điệu mang đặc trưng riêng, than đã chuyển tải được tính chất ai oán vì nỗi đau âm dương cách biệt, mà những người hành lễ thay lời gia đình than lên.
Trên phương diện âm nhạc, than có âm điệu gần với canh ai, nhưng sắc thái ảm đạm hơn, tiết nhịp chậm hơn. Đây chính là nét đặc trưng trong thể loại thanh nhạc than.
2. Hình thức diễn xướng
Trong bốn thể loại trên, thì hình thức diễn xướng của kinh phong phú hơn cả. Đó là diễn xướng đơn, xướng – xô và đồng thanh tập thể.
Diễn xướng đơn (mõ một) là hình thức tụng chủ yếu trong các nghi lễ thường nhật của nhà chùa. Hình thức này chỉ dành cho một vị là tăng – ni cùng với cặp chuông – mõ ngồi tụng. Trong lễ cầu siêu, diễn xướng đơn được phổ biến ở hầu hết khoa cúng, đặc biệt là khi tụng kinh.
Diễn xướng xướng – xô, có thể gọi là hình thức nhắc lại, xuất hiện trong khoa cúng với sự tham gia của nhiều người, hay ở các nghi lễ lớn, thường gặp nhất trong mùa an cư – kết hạ. Các tăng ni thường tập trung để học tập và trau dồi kinh sách. Tại đây, các cao tăng, hòa thượng tụng/giảng kinh, tăng ni ngồi phía dưới thực hiện việc tụng/nhắc lại những câu cuối của mỗi hồi kinh.
Diễn xướng đồng thanh tập thể là hình thức phổ biến trong các nghi lễ Phật giáo lớn. Đồng thanh tập thể cũng xuất hiện vai trò của pháp chủ với tư cách là người cầm trịch để dẫn dắt môn tăng, dàn hợp xướng vào những câu tiếp đó. Sau khi pháp chủ kết thúc sáu tiếng mõ và vào những câu đầu tiên, thì tất cả tăng ni ngồi phía dưới cùng đồng thanh tụng theo.
Tương tự như kinh, canh diễn xướng dưới hai hình thức là diễn xướng hai người và đồng thanh tập thể. Diễn xướng hai người ít được phổ biến, chủ yếu vẫn là hình thức tập thể.
Kệ chỉ diễn xướng bằng một hình thức duy nhất là đọc dưới dạng đối đáp. Mỗi cặp câu sẽ do hai người đọc, mỗi người một câu theo hình thức tả – hữu. Thông thường pháp chủ là người đọc trước rồi mới tới hai người hai bên.
Gần giống với hình thức diễn xướng của canh, than được thể hiện dưới hai hình thức: diễn xướng đồng thanh và diễn xướng nối tiếp đơn lẻ. Đồng thanh là cùng một nội dung bài văn tế, được 3-5 người, thậm chí nhiều hơn, cùng than. Diễn xướng nối tiếp đơn lẻ là hình thức mà ở đó, mỗi người sẽ thực hiện một đoạn, kết thúc phần của người này thì người khác nối tiếp vào.
Như vậy, diễn xướng thanh nhạc trong nghi lễ cầu siêu có năm hình thức, ở đó có sự tương đồng với các hình thức diễn xướng của âm nhạc dân gian truyền thống. Đây là sự giao thoa, ảnh hưởng và gắn kết chặt chẽ giữa âm nhạc tôn giáo với âm nhạc ngoài tôn giáo.
3. Phối kết hợp với nhạc cụ đệm
Nghi lễ cầu siêu có hai hình thức, không nhạc đệm và có nhạc đệm. Trong tụng kinh, trường hợp không nhạc đệm có ở hầu hết các bộ kinh, nhưng với thời lượng ngắn. Ngay khi thực hiện khóa tụng kinh A di đà trong lễ thí thực, thì mở đầu phần tụng không sử dụng nhạc cụ. Trong đoạn: “Nguyên thử hương yêu yên vân/ Biến mãn thập phương giới/ Vô biên Phật độ trung/ Vô lượng hương trang nghiêm/ Cụ túc Bồ Tát đạo/ Thành tự Như Lai hương (cúi đầu…)…” không sử dụng nhạc cụ. Phần mở đầu của khoa cúng này có tới ba đoạn tương tự như vậy không sử dụng nhạc cụ đệm.
Tuy nhiên, phần lớn các tăng ni tụng kinh thường gắn liền với nhạc cụ đệm là chuông và mõ. Mỗi từ trong kinh trùng với một tiếng mõ; nhịp độ của người tụng nhanh hay chậm, hai yếu tố này đều tỷ lệ thuận với nhau. Trong suốt quá trình hành lễ, chuông, mõ và lời của kinh là một thể thống nhất, gắn kết chặt chẽ với nhau. Mở đầu các khoa cúng hoặc buổi tụng, bao giờ các sư tăng cũng phải điểm những hồi chuông, tùy theo từng nghi thức. Kết thúc một hồi chuông, các tăng ni bắt đầu tụng kinh và đồng thời mõ cũng điểm theo. Mõ đóng giữ vai trò giữ nhịp, vừa với tư cách là một pháp khí “vật thiêng”, vừa là khí nhạc đệm cho diễn xướng tụng kinh. Chuông cũng thể hiện vai trò là nhạc cụ để chấm câu, ngắt câu. Trong nhiều trường hợp, chuông gần như chiếc trống chầu trong nghệ thuật ca trù. Mở đầu, kết thúc một khoa cúng, hay mỗi khi tụng, bao giờ người ta cũng dồn một hồi chuông. Các đoạn nhỏ của mỗi câu kinh kết thúc thường được đánh dấu bằng một tiếng chuông báo hiệu. Như thế, chuông, mõ và từng tiếng kinh cứ thế mà gắn kết chặt chẽ với nhau, tạo cho không gian thiêng của mỗi khoa cúng một sắc thái riêng và uy nghi hơn.
Riêng tán canh, việc sử dụng nhạc cụ là một quy định bắt buộc. Nhạc cụ dùng phổ biến trong tán canh thuộc họ màng rung(8) (trống lớn, trống bản), họ tự thân vang (chuông, mõ, thanh la, não bạt, tiu – cảnh), họ hơi có kèn, và họ dây (đàn nguyệt, đàn nhị). Theo đó, mõ và chuông có vai trò cầm trịch, giữ nhịp chính và được điều khiển bởi pháp chủ, nhị có chức năng đi giai điệu cùng với canh, đàn nguyệt đi hòa thanh chiều ngang; kèn thường diễn tấu vào các đoạn lưu không hay điểm nghỉ dài; còn trống, thanh la và não bạt có chức năng tạo và giữ nhịp. Riêng cặp tiu – cảnh được coi là bộ khung xương, là điểm tựa tạo nên nét đặc trưng trong nghệ thuật tán canh. Mối quan hệ giữa tán canh với hai nhạc cụ này là quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Ngoài cặp tiu – cảnh, đôi khi còn thấy người hành lễ sử dụng thêm cả hai chiếc trống lớn và trống bản để đánh theo nhịp của tiu – cảnh. Thông thường, trống luôn là nhạc cụ phụ thuộc vào cặp tiu – cảnh. Tuy nhiên, trống thường đệm theo âm luật thưa hơn, tiết tấu nhiều khi bị lược bớt đi và chủ yếu đệm vào trọng âm, thường là vào đầu của phách mạnh. Các thể loại âm nhạc của nghi lễ Phật giáo nói chung đều thống nhất sử dụng loại nhịp một. Trong phần mở đầu và kết thúc tán canh, người ta thường sử dụng các nhạc cụ trên để hòa tấu theo nhịp trống pháp lôi, trống dẫn lục cúng, trống thượng đường hoặc trống sai.
Riêng đối với kệ, nhạc cụ chỉ được diễn tấu trước khi các sư tăng, thầy cúng tiến hành đọc kệ.
Với than có thể có hoặc không cần nhạc đệm. Nếu có nhạc cụ đi cùng thì thường là nhị, đàn nguyệt và trống ban để tạo và giữ nhịp. Lúc đó, nhị sẽ kéo theo giai điệu của người than, còn đàn nguyệt có chức năng đệm hòa sắc. Trống chỉ sử dụng vào những đoạn đổ dồn hoặt kết thúc mỗi phần than.
Như vậy, qua kinh, canh, kệ và than, có thể thấy thanh nhạc trong nghi lễ cầu siêu đã thể hiện được sự phong phú về hình thức và độc đáo về thể loại. Yếu tố thanh nhạc đã làm cho các khoa cúng trở nên linh thiêng hơn và mang đậm sắc màu của nhà Phật.
_______________
1, 4. Lao Tử, Thịnh Lê, Từ điển Nho – Phật – Đạo, Nxb Văn học, Hà Nội, 2001, tr.633, 599.
2. Qua thực tế khảo sát một số khóa lễ trong Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc – 2008.
3. Khoa Thỉnh Phật, khoa Tiếp linh, khoa Triệu linh, khoa Chúc thực, khoa Phóng sinh và Thí thực, (sách tham khảo nội bộ) do Đại đức Thích Thanh Phương trụ trì chùa Đồng Lim, Thạch Bàn, Long Biên, Hà Nội, cung cấp.
5, 6. Tạp chí Khuông Việt, số 1-2007, tr.39.
7. Tạp chí Khuông Việt, số 3-2008.
8. Theo Đỗ Xuân Tùng, Tạp chí Âm nhạc số 2-1983.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 300, tháng 6-2009
Tác giả : Nguyễn Đình Lâm
Bài viết cùng chủ đề:
Festival Huế – Nét đẹp văn hóa dân tộc Miền Trung Việt Nam
Nhận diện âm điệu bài chòi (p2)
Những giá trị trong nội dung hát ghẹo