Khơ mú là một trong những tộc người có điều kiện kinh tế khó khăn, tỉ lệ hộ nghèo cao. Những nghiên cứu trước đây về sinh kế của nhóm người này thường tập trung vào hoạt động canh tác nương rẫy, khai thác rừng. Một hoạt động sinh kế có vai trò quan trọng, gắn liền với đời sống hàng ngày của họ ít được đề cập đó là khai thác nguồn lợi thủy sản. Thông qua tư liệu điền dã về nhóm người Khơ mú ở 9 bản thuộc các xã dọc sông Nậm Nơn, Nậm Mô trên địa bàn huyện Kỳ Sơn, Nghệ An, bài viết tập trung mô tả, phân tích vai trò của khai thác thủy sản đối với sinh kế của họ. Qua đó cho thấy, mặc dù không phải là hoạt động sinh kế chính, nhưng khai thác thủy sản có vai trò nhất định đối với người Khơ mú không chỉ mang lại nguồn thực phẩm trong bữa ăn hàng ngày, giải quyết việc làm trong lúc nông nhàn mà còn đóng góp một phần vào nguồn thu nhập cho kinh tế hộ gia đình.
Người Khơ mú ở Kỳ Sơn, Nghệ An
Ở Nghệ An, Khơ mú có 35.670 người (chiếm 49% người Khơ mú cả nước), trong đó Kỳ Sơn là huyện tập trung sinh sống đông nhất với tổng dân số là 23.915 người (chiếm 67% người Khơ mú trong tỉnh, gần 33% trên toàn quốc), sinh sống chủ yếu ở 16/21 xã của huyện.
Hầu hết các nghiên cứu đều cho rằng người Khơ mú Nghệ An có nguồn gốc từ Lào, di chuyển đến đây chưa lâu. Trải qua quá trình sinh sống, định canh định cư, ngày nay địa bàn cư trú của người Khơ mú ở Kỳ Sơn thường ở lưng chừng núi, cao hơn người Thái, thấp hơn người Mông. Họ thường định cư trong các ngôi làng nhỏ ven suối, hoạt động kinh tế chủ yếu là làm nương rẫy, đi làm thuê, chăn nuôi với hình thức thả rông, khai thác các sản phẩm tự nhiên từ rừng, sông, suối. Hầu hết nương rẫy của họ được gieo trồng khá đơn giản, chủ yếu là các cây lương thực, phục vụ cho đời sống hàng ngày, hoàn toàn không có cây mang tính chất hàng hóa. Đất đai nơi canh tác của người Khơ mú thường xấu do đất dốc, thiếu nước vào mùa khô dẫn đến tính trạng năng suất cây trồng không cao. Trong khi đó, chăn nuôi vẫn giữ nguyên tập quán thả rông, không có chuồng trại cố định, ít được chăm sóc, nguồn thức ăn chủ yếu lấy từ tự nhiên. Chính vì vậy mà năng suất chăn nuôi không cao, lại thêm nhiều dịch bệnh khiến cho việc chăn nuôi gia súc gia cầm ở người Khơ mú trở nên rất khó khăn. Vào những lúc nông nhàn, người Khơ mú tranh thủ đi làm thuê, công việc rất đa dạng, nhưng ngày công không cao, thiếu ổn định. Ngoài ra họ còn vào rừng khai thác các loại cây dược liệu để bán cho thương lái.
Nguồn lợi thủy sản, tập quán khai thác thủy sản của người Khơ mú
Địa bàn có người Khơ mú cư trú ở Kỳ Sơn là vùng có địa hình phức tạp, nhiều núi cao, phần lớn sông ngòi có hướng Tây Bắc – Đông Nam, chảy trên độ dốc lớn. Về mặt khí hậu, vùng núi miền tây Nghệ An nói chung, huyện Kỳ Sơn nói riêng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng sâu sắc của gió Đông Bắc, Tây Nam. Các yếu tố khí hậu mang tính chất phân cực mạnh, hình thành 2 mùa rõ rệt. Vùng này có mạng lưới sông suối dày đặc, lượng nước thay đổi theo mùa, với hai nhánh chính của hệ thống sông Cả là Nậm Nơn, Nậm Mô, cùng các con suối lớn nhỏ. Khí hậu, địa hình như vậy là điều kiện lý tưởng cho nhiều loài thủy sản sinh sống, trong đó có các loài cá có giá trị dinh dưỡng, kinh tế cao.
Loài thủy sản được người Khơ mú coi là có giá trị dinh dưỡng, kinh tế cao là cá lệch, cá lăng, cá ghé, cá mát, các loại ốc nhỏ, trạch, nòng nọc, rêu. Họ khai thác thủy sản bằng nhiều cách, câu, chài, lưới… tùy thuộc vào đối tượng đánh bắt, ngư trường. Mỗi loại ngư cụ có thể đánh bắt ở những ngư trường nhất định. Đối với người Khơ mú ở Kỳ Sơn thì ngư trường chủ yếu là sông, suối, nhưng các nguồn lợi thủy sản từ suối vẫn là nơi khai thác quan trọng nhất đối với họ.
Quá trình khảo sát các bản làng của người Khơ mú dọc sông Nậm Nơn, Nậm Mô cho thấy việc sử dụng thuyền vào khai thác thủy sản là rất hạn chế, trong 9 bản được khảo sát chỉ có 4 bản là có thuyền dùng để đánh bắt cá với số lượng rất ít. Trong khi đó, các bản làng của người Thái sống lân cận lại sử dụng rất nhiều thuyền phục vụ cho việc đánh bắt thủy sản, đi lại.
Hầu hết người Khơ mú cho rằng họ khai thác thủy sản quanh năm, các loại đánh bắt được vào mùa mưa là khoảng 60 – 70%, mùa khô khoảng 30 – 40%. Thời điểm từ tháng 3 cho đến tháng 11 dương lịch mưa nhiều, nước sông, suối dâng cao, nước đục là lúc có nhiều cá, các loại sinh vật thủy sinh, nhưng nước to lại gây khó khăn cho đánh bắt. Thời gian từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau nước cạn, dễ đánh bắt nhưng cá, trạch, tôm, ốc… lại không có. Ngoài đánh bắt cá, tôm… thì người Khơ mú thường đi lấy rêu về ăn.
Nhìn chung, nguồn lợi thủy sản là tài nguyên khá quan trọng đối với người Khơ mú ở những địa bàn nghiên cứu. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do dân số tăng lên, giá trị của các nguồn lợi thủy sản ở miền tây Nghệ An được nhiều người biết đến nhưng việc sử dụng ngư cụ chưa hợp lý, khai thác quá mức, đặc biệt là ảnh hưởng của việc tàn phá rừng tự nhiên, chất thải nông nghiệp, công nghiệp, thủy điện… đã làm suy giảm loại tài nguyên này rất đáng kể. Các loại cá to, nhỏ, thủy sinh ngày càng trở nên cạn kiệt.
Thủy sản là nguồn cung cấp để ứng phó với tình trạng thiếu thực phẩm của người Khơ mú
Qua khảo sát thấy rằng người Khơ mú ở Kỳ Sơn, Nghệ An coi các nguồn lợi thủy sản là những thực phẩm quan trọng trong đời sống hàng ngày, có sẵn trong tự nhiên, cung cấp thực phẩm tại chỗ, ưa thích cho họ. Ở hầu hết các bản, người dân đều có các hoạt động khai thác thủy sản để phục vụ cho bữa ăn, nhưng quy mô, tần suất rất khác nhau, chỉ có từ 5 – 7 hộ hoạt động đánh bắt thủy sản thường xuyên. Những hộ này không chỉ đánh bắt để ăn mà họ còn mang bán. Ngoài ra, những hộ gia đình khác tham gia đánh bắt thủy sản chỉ để đói phó với việc thiếu thực phẩm, cải thiện bữa ăn, tranh thủ thời gian rảnh rỗi.
Nhìn chung ý kiến người dân đều cho rằng họ có cá ăn thường xuyên. Việc đánh giá mức độ về tầm quan trọng của thực phẩm có nguồn gốc từ thủy sản tăng lên tỷ lệ thuận với cự ly cư trú của người dân bản đó có gần sông suối hay không.
Khi đánh bắt được cá, người Khơ mú có nhiều cách chế biến, phổ biến nhất vẫn là nấu canh chua cá lăng, cá ghé với lá me hoặc măng, cá mát dùng để kho, rán, nướng, phơi khô, ướp muối, xào mặn, rêu thì thường phơi khô hoặc lấy về rửa sạch để nấu canh, nòng nọc nấu với hoa chuối rừng. Một trong những món ăn truyền thống được ưa thích, gắn liền với phong cách ẩm thực của người Khơ mú đó là món nhoọc hay uur, nguyên liệu là cà ngọt, ớt cay được cho vào ống nứa, thêm tấm của gạo nếp vào cá suối nướng hoặc thịt giàng trên bếp, đổ nước vào ống nứa, đun kỹ để cho các nguyên liệu chín nục; sau đó vừa đun vừa lấy đũa chọc, quấy đảo nhiều lần cho nhuyễn rồi mang ra để chấm với xôi nếp nương.
Nương rẫy, rừng là nguồn sống chủ yếu của tộc người này. Rừng bảo vệ cho đất đai khỏi bị xói mòn, cung cấp nhiều sản phẩm cho đời sống của người Khơ mú. Các sản phẩm thu hoạch từ nương rẫy, chăn nuôi, khai thác tự nhiên từ rừng trở thành nguồn chính cho bữa ăn của họ. Có thể nói, việc khai thác các nguồn lợi thủy sản từ tự nhiên của người Khơ mú ở Kỳ Sơn không trở thành nguồn sinh kế chính, nhưng nó mang một ý nghĩa quan trọng là sự ứng phó với tình trạng thiếu lương thực ở tộc người này hiện nay.
Khai thác thủy sản, giải quyết việc làm trong lúc nông nhàn của người Khơ mú
Đối với người Khơ mú ở miền tây Nghệ An, ngoài việc làm nương rẫy là hoạt động kinh tế chính thì họ có rất nhiều thời gian rảnh rỗi. Do vậy, khai thác thủy sản là công việc mang lại thu nhập cho họ trong thời gian này. Qua khảo sát cho thấy, hầu hết các bản đều có người tham gia khai thác thủy sản, nhưng quy mô, mức độ tham gia không giống nhau.
Trong khai thác thủy sản thấy rõ sự phân công lao động theo giới, ở đó người đàn ông thường đánh bắt các loại thủy sản có giá trị kinh tế cao hơn, đòi hỏi kỹ năng, sức khỏe cao hơn như: giăng lưới, chài… các loại cá to, trong khi đó phụ nữ thường mò rêu, bắt ốc, xúc tôm, cua và các loại cá nhỏ ít có giá trị hơn về mặt kinh tế. Công việc này không chỉ mang lại thu nhập, đóng góp thực phẩm vào bữa ăn của hộ gia đình mà còn góp phần giải quyết việc làm vào lúc nhàn rỗi, thúc đẩy thương mại, giao lưu tộc người một cách gián tiếp thông qua các hoạt động mua bán ngư cụ, các sản phẩm thủy sản khai thác được.
Thủy sản mang lại nguồn thu nhập cho hộ gia đình
Khơ mú là tộc người có tỉ lệ nghèo cao nhất ở Nghệ An. Nông nghiệp làm rẫy là hoạt động kinh tế quan trọng nhất mang lại thu nhập cho họ, là hoạt động kinh tế chính mang lại nguồn sống cho người dân, tiếp đến là khai thác lâm thổ sản từ rừng, hoặc đi làm thuê, cuối cùng mới là khai thác các nguồn lợi thủy sản để ăn, bán, trao đổi.
Thủy sản khai khác được của người Khơ mú khá đa dạng, nhìn chung có hai dạng phổ biến là sản phẩm thủy sản có giá trị cao, là các loại cá lớn, thịt ngon, bán cho người khác được giá cao; thủy sản có giá trị thấp thường là các loại cá, tôm có kích cỡ nhỏ hay các loại rong, rêu, ốc… thường bán với giá thấp nên người dân chủ yếu dùng để ăn. Nhìn chung, khai thác thủy sản không phải là nguồn sinh kế mang lại thu nhập chính cho người dân, nhưng cũng góp phần đáng kể vào nguồn thu nhập ít ỏi của không ít hộ gia đình người Khơ mú.
Qua các cuộc phỏng vấn, thảo luận nhóm từ người dân cho thấy nguồn lực tự nhiên về thủy sản trong sinh kế tại địa bàn có người Khơ mú sinh sống ngày càng giảm. Ở những nơi nước sâu, cá to, nguồn lợi thủy sản dồi dào thì người Khơ mú ít có kinh nghiệm, nguồn lực cần thiết để khai thác. Do điều kiện kinh tế còn khó khăn, tỉ lệ đói nghèo cao nên việc mua sắm thuyền, ngư lưới cụ đối với người Khơ mú ở những địa bàn khảo sát là điều không hề dễ dàng.
Thực tế cho thấy, nguồn lực xã hội của người Khơ mú trong khai thác các nguồn thủy hải sản là khá mờ nhạt, ít có sự liên kết trong việc khai thác các nguồn lợi này, chủ yếu là hoạt động của các cá nhân riêng lẻ mà chưa có sự liên kết với nhau giữa các thành viên trong cộng đồng, việc tiêu thụ các sản phẩm sau khi đánh bắt được chủ yếu dùng cho bữa ăn hàng ngày hoặc là bán, trao đổi ngay tại bản. Đối với người Thái sinh sống trong vùng, bên cạnh việc khai thác nhỏ lẻ của các hộ gia đình, họ cũng thường có mối liên kết với nhau từ hai ba hộ cùng khai thác, đôi khi là cùng chung nhau một chiếc thuyền để đánh bắt cá trên sông. Bên cạnh đó, trong tiêu thụ thủy sản họ cũng thường có mối liên hệ ở một không gian rộng lớn hơn, không chỉ là bán cho người dân trong cùng khu vực cư trú mà họ còn bán cho những thương lái, nhà hàng ở thị trấn trong vùng.
Mặc dù vậy, khai thác thủy sản vẫn đóng một vai trò quan trọng trong sinh kế của người Khơ mú ở Kỳ Sơn, Nghệ An, không chỉ là hoạt động phụ trợ lúc nông nhàn mà còn đóng góp vào thu nhập của không ít hộ gia đình. Quan trọng hơn, khai thác thủy sản đóng vai trò là nguồn bổ sung dinh dưỡng cho bữa ăn hàng ngày để ứng phó với tình trạng thiếu thực phẩm. Ngày nay, do nhiều nguyên đã làm cho nguồn thủy sản trên địa bàn cư trú ngày càng cạn kiện, khiến cho nguồn sinh kế của tộc người này càng trở nên khó khăn hơn.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 402, tháng 12 – 2017
Tác giả : LÊ MẠNH HÙNG
Bài viết cùng chủ đề:
Tác động của nghề cơ khí và mộc dân dụng đối với đời sống văn hóa làng đại tự
Tư tưởng về đạo đức môi trường ở phương đông
Kiến thức văn hóa của nhà báo, thiếu và sai