Thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo ở các nhà trường quân đội là xu
thế khách quan và cũng là đòi hỏi cấp thiết từ
thực tiễn xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại trong tình hình mới. Đây là quá trình
tác động tổng thể với nhiều khâu, nhiều bước,
từ việc xây dựng mô hình mục tiêu, chương
trình, nội dung đào tạo đến tổ chức quản lý, xây
dựng đội ngũ nhà giáo, công tác bảo đảm, trong
đó, nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học xã
hội và nhân văn của đội ngũ giảng viên trẻ giữ
vị trí đặc biệt quan trọng, trực tiếp quyết định
đến chất lượng quá trình này.
Những năm qua, trên cơ sở đánh giá đúng đắn về vị trí, vai trò của đội ngũ giảng viên trẻ cũng như quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4-11-2013 của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nhất là tinh thần: “Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý”, Đảng ủy, Ban Giám đốc (Ban Giám hiệu) các học viện, trường sĩ quan quân đội đã nhận thức sâu sắc và tập trung mọi nguồn lực để triển khai thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ trọng tâm, then chốt là giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học, nhằm tạo sự đột phá trong quá trình xây dựng và phát triển; phát huy có hiệu quả vai trò của các tổ chức, các lực lượng, trước hết là vai trò xung kích, sáng tạo của đội ngũ giảng viên trẻ trong đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn đi vào chiều sâu.
Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn của đội ngũ giảng viên trẻ không ngừng được nâng lên cả về số lượng và chất lượng. Nhiều công trình nghiên cứu sau khi nghiệm thu được biên soạn thành sách tham khảo, phục vụ giảng dạy, học tập và triển khai ứng dụng có hiệu quả vào công tác giáo dục, đào tạo của các nhà trường, đơn vị trong toàn quân. Đồng thời, đã có nhiều đóng góp tích cực trong tổng kết thực tiễn và bổ sung, phát triển lý luận nhằm cung cấp những luận cứ khoa học về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung, nhà trường cùng các đơn vị quân đội nói riêng vững mạnh toàn diện, lấy vững mạnh về chính trị làm nòng cốt; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng trong tình hình mới; nâng cao vị thế, uy tín của các nhà trường quân đội trong hệ thống giáo dục quốc gia.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đáng khích lệ nêu trên, hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn của đội ngũ giảng viên trẻ ở các nhà trường quân đội còn tồn tại nhiều bất cập như: có giảng viên trẻ còn biểu hiện lúng túng, bị động trong việc định hướng nghiên cứu; tiến độ triển khai một số nhiệm vụ khoa học còn chậm so với yêu cầu; việc tham gia công tác biên soạn giáo trình, tài liệu dạy học chất lượng đạt được chưa cao; sự đam mê và tính sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn chưa thể hiện rõ nét; việc bảo đảm các nguồn lực cho hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn cho giảng viên trẻ còn bộc lộ nhiều bất cập trong quá trình triển khai thực hiện… Những vấn đề này nếu không kịp thời khắc phục sẽ là trở lực đối với chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học của mỗi nhà trường quân đội nói chung cũng như chất lượng nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn của giảng viên trẻ nói riêng.
Trước yêu cầu xây dựng, phát triển các nhà trường quân đội xứng đáng với vai trò là các trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học hàng đầu của quân đội trong tình hình mới, đã đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ và tính cấp thiết phải không ngừng nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn của giảng viên trẻ, bảo đảm cho họ nắm bắt những sự kiện khoa học, xác lập những vấn đề nghiên cứu thiết thực và biết huy động hệ thống tri thức và kỹ năng để giải quyết vấn đề nghiên cứu độc lập, sáng tạo, nhằm lại hiệu quả cao trong quá trình nghiên cứu. Theo đó, để nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn cho giảng viên trẻ ở các nhà trường quân đội, cần quan tâm thực hiện tốt một số nội dung cơ bản:
Một là, xây dựng động cơ, mục đích nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn đúng đắn cho giảng viên trẻ ở các nhà trường quân đội.
Thực tế cho thấy, những người có biểu hiện lệch lạc về động cơ, mục đích trong lao động khoa học như vụ lợi, không trung thực, thường chậm phát triển về khả năng nghiên cứu khoa học. Vì vậy, để giáo dục động cơ, mục đích lao động khoa học đúng đắn cho giảng viên trẻ, đòi hỏi người lãnh đạo, chỉ huy các cấp vừa phải quan tâm thỏa mãn nhu cầu nghiên cứu khoa học của giảng viên, mặt khác phải định hướng nghiên cứu cho họ theo những yêu cầu lý giải khoa học các vấn đề thực tiễn của xã hội và quân đội. Trong điều kiện hiện nay, việc giáo dục động cơ, mục đích nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn cho giảng viên trẻ ở các nhà trường quân đội phải gắn liền với việc quán triệt những phương hướng nghiên cứu khoa học được nêu ra trong các văn kiện Đại hội của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội. Trên cơ sở đó, từng giảng viên trẻ cần tích cực chuyển hóa thành nhu cầu, động cơ nghiên cứu khoa học của bản thân một cách rõ ràng, thiết thực.
Hai là, nâng cao trình độ vận dụng phương pháp luận vào hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn của giảng viên trẻ ở các nhà trường quân đội.
Phương pháp luận với tư cách là “lý luận về các phương pháp nhận thức và cải tạo hiện thực, có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng cho hoạt động nghiên cứu”. Do đó, năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn của giảng viên trẻ ở các nhà trường quân đội gắn bó rất mật thiết với trình độ vận dụng phương pháp luận của họ trong quá trình giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể. Để nâng cao trình độ vận dụng phương pháp luận vào hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn của giảng viên trẻ ở các nhà trường quân đội, mỗi giảng viên trẻ phải có tri thức khoa học sâu sắc về quy luật của sự vật, hiện tượng, đồng thời nắm vững nguyên lý, nguyên tắc xem xét chung và có kỹ năng thực hiện các quy trình và cách thức nghiên cứu. Tất cả những yếu tố đó chỉ được kiểm nghiệm và bồi đắp khi người giảng viên thực sự bắt tay vào thực hiện các đề tài nghiên cứu. Vì vậy, để bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học cho giảng viên trẻ ở các nhà trường quân đội, lãnh đạo, chỉ huy các nhà trường phải tạo ra nhiều cơ hội để giảng viên trẻ được tham gia các đề tài nghiên cứu. Đến lượt mình, từng giảng viên trẻ phải làm việc một cách nghiêm túc, trên cơ sở xác định rõ những căn cứ lý luận của vấn đề nghiên cứu, thực sự tôn trọng thực tiễn khách quan và tuân thủ nghiêm túc các nguyên tắc, quy trình, cách thức, phương pháp nghiên cứu.
Ba là, thực hiện tốt việc cung cấp thông tin để giảng viên trẻ ở các nhà trường quân đội phát hiện ra các vấn đề trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn.
Trong đời sống xã hội và thực tiễn quân sự, thường diễn ra hàng loạt hoạt động khác nhau, nhưng không phải hoạt động nào cũng trở thành vấn đề có tính cấp thiết đòi hỏi phải có sự đầu tư nghiên cứu, luận giải. Thông thường, những tình huống, sự kiện có ý nghĩa kích thích, thúc đẩy con người tìm tòi, khám phá bản chất, quy luật, cơ chế… của nó hoặc làm thay đổi những hiểu biết vốn có của họ thì được xem là vấn đề khoa học. Do vậy, nhiệm vụ của giảng viên trẻ ở các nhà trường quân đội trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn là phải phát hiện và xử lý chúng để đưa ra những luận cứ, luận điểm khoa học có tính mới mẻ, đóng góp thiết thực vào phát triển lý luận khoa học xã hội nhân văn quân sự của đất nước. Hiện nay, trước sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, giảng viên trẻ ở các nhà trường quân đội nói riêng có nhiều điều kiện thuận lợi trong tiếp nhận thông tin và các vấn đề thực tiễn xã hội, đất nước và Quân đội. Tuy nhiên, do tác động của thông tin nhiều chiều nên giảng viên trẻ ở các nhà trường quân đội vẫn gặp những khó khăn không nhỏ trong nắm bắt các vấn đề thực sự có tính chất khoa học. Chính vì thế, lãnh đạo, người chỉ huy các cấp ở các nhà trường quân đội cần tăng cường các hoạt động thông tin khoa học và tổ chức cho giảng viên trẻ tích cực tham gia vào các hoạt động thực tiễn quân sự như: nghiên cứu thực tế, thực hành giảng dạy,… nhằm tạo điều kiện để họ nắm bắt được ngày càng nhiều những sự kiện khoa học và cập nhật thông tin cần thiết, từ đó nâng khả năng tìm tòi, phát hiện các vấn đề trong nghiên cứu.
Bốn là, rèn luyện tư duy độc lập, sáng tạo và kỹ năng làm việc tập thể trong quá trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn của giảng viên trẻ ở các nhà trường quân đội.
Yêu cầu này đặt ra đối với mỗi giảng viên trẻ ở các nhà trường quân đội vừa phải có tư duy độc lập, sáng tạo, vừa phải có kỹ năng làm việc tập thể mới mang lại hiệu quả thực sự trong quá trình nghiên cứu. Để thực hiện điều này, lãnh đạo, chỉ huy các cấp, nhất là ở các khoa, bộ môn cần kích thích tính tích cực hoạt động tư duy của giảng viên thông qua phát huy dân chủ, tự do tư tưởng trong nghiên cứu, tăng cường các hình thức sinh hoạt khoa học nhằm bồi dưỡng, phát triển kỹ năng, kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn của giảng viên trẻ ở các nhà trường quân đội. Từ đó, giúp cho mỗi giảng viên trẻ tích cực xóa bỏ tư duy kiểu “lối mòn” trong xác định và giải quyết các vấn đề; đồng thời quyết tâm tìm tòi, biết tự khẳng định mình trong quá trình nghiên cứu.
Kinh nghiệm thực tiễn triển khai nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn ở các nhà trường quân đội những năm qua cho thấy, để nâng cao kỹ năng làm việc tập thể trong nghiên cứu khoa học, luôn đòi hỏi phải có sự thống nhất chặt chẽ giữa các thành viên của tập thể khoa học về ý tưởng, kế hoạch nghiên cứu; có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng. Đồng thời, cá nhân người làm khoa học luôn đề cao trách nhiệm của mình; biết lắng nghe và tôn trọng thành quả nghiên cứu của đồng sự; sẵn sàng cộng tác để cùng nhau hoàn thành mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. Do vậy, các lãnh đạo, chỉ huy, quản lý ở các nhà trường cần quan tâm quán triệt, thống nhất mục đích, phương thức hoạt động tập thể trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn cho giảng viên trẻ.
Năm là, hoàn thiện cơ chế, chính sách đãi ngộ hợp lý nhằm khuyến khích giảng viên trẻ cống hiến, phát huy vai trò của mình trong tham gia nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn.
Vấn đề cốt lõi của nội dung này là tạo ra điều kiện, môi trường thuận lợi để giảng viên trẻ hăng say với hoạt động nghiên cứu khoa học. Vì vậy, cần có cơ chế thích hợp để giảng viên trẻ tham gia công bố các kết quả nghiên cứu khoa học của họ thông qua các nội dung giảng dạy có liên quan. Thực hiện tốt nội dung này vừa góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, vừa tạo điều kiện thuận lợi để giảng viên trẻ kiểm nghiệm kết quả nghiên cứu khoa học của mình; đồng thời giúp họ phát hiện những vấn đề nghiên cứu tiếp theo, phục vụ trực tiếp cho nhiệm vụ giáo dục và đào tạo của nhà trường.
Cùng với vấn đề nêu trên, cần gắn kết chặt chẽ giữa đổi mới, hoàn thiện các chế độ, nề nếp hoạt động nghiên cứu khoa học; tạo ra nhiều hình thức hoạt động và sinh hoạt khoa học xã hội và nhân văn phù hợp với nhu cầu và trình độ của giảng viên trẻ; tạo ra không khí hoạt động khoa học xã hội và nhân văn sôi nổi, rộng khắp, dân chủ. Đồng thời, có cơ chế khuyến khích, động viên thiết thực, kịp thời đối với các cá nhân và các công trình nghiên cứu có chất lượng tốt.
Nếu thực hiện có hiệu quả có nhiệm vụ, giải pháp nêu trên, hoạt động nghiên cứu khoa học nói chung và năng lực nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn của giảng viên trẻ ở các nhà trường quân đội sẽ không ngừng được nâng cao chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo của các nhà trường; góp phần đưa các nhà trường quân đội tiến lên mạnh mẽ hơn nữa trong sự nghiệp giáo dục – đào tạo và nghiên cứu khoa học trong tình hình mới.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 1-11-2012 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về “Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, Hà Nội, 2012.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 29 Hội nghị Trung ương tám khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Hà Nội, 2013.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.
4. Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự, Nâng cao chất lượng đề tài khoa học xã hội nhân văn quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, 2003.
Tác giả: Hoàng Chung Hiếu
Nguồn: Tạp chí VHNT số 449, tháng 1-2021
Bài viết cùng chủ đề:
Note ngay các trải nghiệm du lịch Huế dịp Valentine chi tiết nhất
Kinh nghiệm đi du lịch Đà Nẵng dịp tết nguyên đán 2023 chi tết A-Z
Nghệ nhân Nguyễn Đức Bằng thổi hồn vào lá bồ đề mạ vàng