Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định, đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, nước ta sẽ trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Để hiện thực hóa mục tiêu này, cần phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đột phá về phát triển nguồn nhân lực được Đại hội Đảng lần thứ XIII xác định là một trong ba đột phá chiến lược nhằm hiện thực hóa Chiến lực phát triển kinh tế – xã hội 10 năm (2021- 2030).

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định, đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, nước ta sẽ trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Để hiện thực hóa mục tiêu này, cần phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đột phá về phát triển nguồn nhân lực được Đại hội Đảng lần thứ XIII xác định là một trong ba đột phá chiến lược nhằm hiện thực hóa Chiến lực phát triển kinh tế – xã hội 10 năm (2021- 2030).

Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, không trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, trình độ lực lượng sản xuất ở mức thấp, lại chịu hậu quả nghiêm trọng của nhiều cuộc chiến tranh tàn phá. Do đó, thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mà toàn Đảng, toàn dân ta đang thực hiện.

Đảng ta luôn khẳng định, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Đó là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động cao. Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.

Khi bàn về nguồn nhân lực, các nhà khoa học thường đề cập đến 3 yếu tố: số lượng (hay quy mô), chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực của đất nước được tăng cường cả về quy mô và chất lượng. Lực lượng lao động cả nước tăng từ 50,4 triệu người năm 2010 lên 56,2 triệu người năm 2020. Tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 40% năm 2010 tăng lên khoảng 65% năm 2020 (1). Qua 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (2).

Tuy nhiên, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo ở nước ta còn khá lớn, chất lượng đào tạo thấp, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý. Hiện nay, nước ta đang rất thiếu công nhân có kỹ năng lao động cao, thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực, nhưng thừa lao động thủ công, không qua đào tạo. Trong khi đó, cạnh tranh quốc tế bằng lao động phổ thông, giá nhân công rẻ cho thấy không mang lại hiệu quả cao. Sự thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng cao đang trở thành trở ngại lớn cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Trong khi đó, theo dự báo của Tổng cục Thống kê, thời kỳ dân số vàng sẽ kéo dài trong khoảng 34 năm và kết thúc vào năm 2041. Như vậy, chúng ta đã trải qua hơn 10 năm trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, nhưng thực tế cho thấy giá trị thặng dư, hiệu suất kinh tế chưa tương xứng với số lượng lao động hiện có của cả nước. Điều này thể hiện rõ ở việc so sánh năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực: “Năng suất lao động của Việt Nam năm 2020, theo ước tính của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), thấp hơn 7 lần so với Malaysia; 4 lần so với Trung Quốc; 3 lần so với Thái Lan; 2 lần so với Philippines và 26 lần so với Singapore. Báo cáo 2020 của Tổ chức Năng suất châu Á (APO) cũng cho thấy, năng suất lao động Việt Nam tụt hậu so với Nhật Bản 60 năm, so với Malaysia 40 năm và Thái Lan 10 năm” (3).

Trong những giai đoạn trước đây, do lực lượng sản xuất còn thấp, sự phát triển, tăng trưởng chủ yếu dựa trên việc khai thác và chế biến tài nguyên thiên nhiên. Khi tài nguyên thiên nhiên đang cạn kiệt dần, đặc biệt dưới tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) thì quốc gia nào có nguồn nhân lực tốt hơn sẽ phát triển nhanh, bền vững hơn. Bởi vì sự tăng trưởng kinh tế hiện nay đang giảm dần phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, mở rộng tín dụng; từng bước dựa vào ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao gắn kết chặt chẽ với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ được cho là yếu tố quyết định để thực hiện hai khâu đột phá còn lại là hoàn thiện thể chế kinh tế và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ. Thực hiện tốt khâu đột phá này sẽ làm tăng tiềm lực và sức mạnh của đất nước, tạo lợi thế cạnh tranh, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, quyết định đến thành công của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định, ba đột phá chiến lược do Đại hội XI và XII xác định vẫn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa lâu dài và sẽ được cụ thể hóa phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Trong 5 năm tới, đột phá về phát triển nguồn nhân lực được xác định cụ thể là: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo” (4). Quan điểm phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao được đề ra trong Văn kiện Đại hội XIII cho thấy, phát triển nguồn nhân lực ở nước ta đã bắt kịp xu hướng phát triển về chất lượng trong bối cảnh CMCN 4.0, kinh tế số, cạnh tranh, hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững. Quan điểm trên của Đảng là định hướng lớn, cơ bản cho việc phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Để phát triển nguồn nhân lực bền vững cần thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản là:

Tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo

 Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Đảng ta luôn nhất quán coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Thực tiễn, các nước phát triển cũng cho thấy, không nước nào đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao trước khi đạt được mức phổ cập giáo dục phổ thông, như Garry Becker – nhà khoa học Mỹ đạt giải Nobel kinh tế năm 1992 nhận xét: “Không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục” (5). Đại hội XIII xác định giải pháp đổi mới giáo dục và đào tạo là: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo. Nghiên cứu để hoàn thiện, ổn định hệ thống sách giáo khoa và chế độ thi cử ở các cấp học. Chú trọng đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý dạy và học trực tuyến qua internet, truyền hình, các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)” (6).

Đổi mới giáo dục và đào tạo trước hết cần nghiên cứu để hoàn thiện, ổn định hệ thống sách giáo khoa và chế độ thi cử ở các cấp học. Đây vẫn là vấn đề căn bản, cốt yếu của mọi nền giáo dục nói chung. Hệ thống sách giáo khoa phản ánh chương trình, nội dung giáo dục. Hệ thống này phải có tính vượt trước, bởi sản phẩm của nền giáo dục phải sau một quá trình đào tạo mới có sự phản hồi từ xã hội. Nếu hệ thống sách giáo khoa không phản ánh được nhu cầu tương lai về nguồn nhân lực, thì khi đó sản phẩm của nền giáo dục sẽ không đáp ứng được nhu cầu của xã hội, điều đó cũng đồng nghĩa nguồn nhân lực của đất nước bị lạc hậu, không đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Hơn nữa, việc biên soạn sách giáo khoa và chế độ thi cử trong giáo dục của chúng ta còn nhiều bất cập. Chế độ thi cử chưa đẩy lùi được “bệnh thành tích” và tiêu cực sẽ làm thui chột tài năng và động lực học tập của người học. Chú trọng đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo. Đây là đội ngũ “máy cái” của nền giáo dục, họ cần có kiến thức, phương pháp sư phạm và đạo đức cao đẹp.

Cần đa dạng hóa các hình thức học tập như: học trên lớp, học trực tuyến qua internet, các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Đây là định hướng quan trọng nhằm tận dụng những thành tựu của khoa học, cho phép sự kết nối không giới hạn về thời gian, không gian giữa người dạy và người học. Trong phòng, chống dịch COVID-19 vừa qua cho thấy, ngành Giáo dục đã chuyển tương đối thành công sang dạy học trực tuyến. Thực tế đó khẳng định chúng ta có thể đa dạng hóa các hình thức giáo dục phù hợp với xu thế thời đại, góp phần tiết kiệm chi phí học tập và tạo điều kiện cho mọi người có thể học suốt đời.

Nâng cao chất lượng đào tạo nghề, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao

 Văn kiện Đại hội XIII xác định: “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu CMCN 4.0 và hội nhập quốc tế… Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt; bảo đảm thống nhất chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, nhất là ở nông thôn; giảm tỷ lệ lao động khu vực phi chính thức. Chú trọng đào tạo lại, đào tạo thường xuyên lực lượng lao động. Hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao động” (7). Trên tinh thần bảo đảm thống nhất với chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, Đại hội XIII có bước phát triển mới về phát triển nguồn nhân lực. Đại hội XII mới đặt ra yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội (8), Đại hội XIII đặt ra phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu CMCN 4.0 và hội nhập quốc tế. Quan điểm chỉ đạo về đào tạo nghề phục vụ cho sự phát triển nguồn nhân lực của Đại hội XIII vừa có sự kế thừa các đại hội trước, vừa xuất phát từ thực tiễn và yêu cầu của CMCN 4.0 cũng như hội nhập quốc tế. Nội dung tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao: “Đặc biệt, chú ý phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút nhân tài cho phát triển kinh tế – xã hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học ngoại ngữ, coi trọng dạy, học và sử dụng tiếng Anh. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực” (9).

Thực hiện định hướng đào tạo nghề nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời gian tới, cần thực hiện tốt hệ thống văn bản pháp luật về phát triển nguồn nhân lực đã được ban hành như Bộ luật Lao động năm 2012, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, Luật Giáo dục năm 2019, Luật Cán bộ công chức, Luật Viên chức… Hệ thống văn bản này đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi và tạo động lực cho việc thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Đồng thời, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách và pháp luật về đào tạo nghề. Để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thành công, cần có các chính sách hợp lý. Nhà nước cần có chiến lược lâu dài, tổng thể nhằm xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao có cơ cấu, đủ năng lực, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức.

Đẩy mạnh quá trình nghiên cứu và phát triển khoa học, công nghệ

Cùng với giáo dục, đào tạo, khoa học – công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế – xã hội. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bằng và dựa vào khoa học, công nghệ. Đại hội XIII xác định: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu công nghệ của CMCN 4.0” (10). Trong bối cảnh hiện nay, nước ta đang có nhiều thời cơ và thuận lợi để rút ngắn quá trình phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong mỗi cuộc CMCN chỉ có một số ít các quốc gia tận dụng thành công để rút ngắn và đuổi kịp trình độ phát triển của các nước đi trước. Cuộc CMCN 4.0 đang tạo ra lợi thế rất lớn cho những nước đang phát triển vươn lên trở thành nước phát triển.

Với tầm chiến lược, Đại hội XIII nhiều lần nhấn mạnh, cần khơi dậy “khát vọng phát triển đất nước” để đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự phát triển của khoa học hiện nay đã chứng minh nhận định của C.Mác rằng: khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải là nguồn nhân lực được đào tạo, nắm vững khoa học, kỹ thuật, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao phải nắm bắt được những thành tựu tiên tiến của khoa học, công nghệ. Đây là động lực để cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng.

Xây dựng đất nước trở thành nước công nghiệp phát triển là ước mơ, khát vọng của toàn Đảng, toàn dân ta. Thực hiện mục tiêu này, cần phải có nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội XIII đã vạch ra tầm nhìn và chiến lược phát triển toàn diện đất nước. Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên là điều kiện phát triển nguồn nhân lực có số lượng đông đảo, cơ cấu hợp lý, chất lượng cao, tạo động lực rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.

________________

1. Nguồn: Tổng cục Thống kê.

2, 4, 6, 7, 9, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.25, 203-204, 232-233, 231-232, 234, 234-235.

3. M.P, Việt Nam nỗ lực cải thiện năng suất lao động, dangcongsan.vn, 28-4-2021.

5. Vũ Bá Thể, Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2005, tr.18.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.295-296.

THS TRẦN MINH ĐỨC

Nguồn: Tạp chí VHNT số 473, tháng 9-2021

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *