TỤC NGỮ THÁI THANH HÓA

/* Style Definitions */
table.MsoNormalTable
{mso-style-name:”Table Normal”;
mso-tstyle-rowband-size:0;
mso-tstyle-colband-size:0;
mso-style-noshow:yes;
mso-style-priority:99;
mso-style-qformat:yes;
mso-style-parent:””;
mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;
mso-para-margin-top:0cm;
mso-para-margin-right:0cm;
mso-para-margin-bottom:10.0pt;
mso-para-margin-left:0cm;
line-height:115%;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:11.0pt;
font-family:”Calibri”,”sans-serif”;
mso-ascii-font-family:Calibri;
mso-ascii-theme-font:minor-latin;
mso-hansi-font-family:Calibri;
mso-hansi-theme-font:minor-latin;}


Trong quá trình lao động sản xuất và giao tiếp ứng xử, người Thái Thanh Hóa qua nhiều thế hệ đã tích lũy kinh nghiệm, tạo nên một nguồn tri thức phong phú, đó là những câu tục ngữ. Việc sưu tập, dịch tục ngữ Thái Thanh Hóa đã có một số người thực hiện nhưng việc giới thiệu tục ngữ Thái Thanh Hóa thì chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào.
Trong bài viết này, chúng tôi nêu một số chủ đề nổi bật trong kho tàng tục ngữ Thái Thanh Hóa, nhằm góp phần bảo tồn một lĩnh vực quan trọng trong nguồn tri thức bản địa của người Thái Thanh Hóa. Nguồn tư liệu chủ yếu là những câu tục ngữ được sưu tầm trên địa bàn cư trú của người Thái Thanh Hóa (1).

         1. Tc ng v nông nghip

Người Thái đúc rút được nhiều câu tục ngữ để khuyến nông. Người Thái đã có nhiều thực tiễn trên lĩnh vực làm lúa nước, coi trọng những khâu liên hoàn trong việc cấy trồng như nước, giống, phân. Họ khuyến khích phát triển ruộng nước, hạn chế phát nương làm rẫy, điều đó thể hiện ở các câu tục ngữ sau:
Háy têm ta
Báu pán nà hới nọi

Nương bao la không bằng ruộng nhà một thửa

Pí đáy sớ đáy khoai
Pí xia sớ tái giác

Làm nương rẫy năm được thì được trâu


Năm mất thì chết đói

Làm nương rẫy phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, nếu năm nào mưa gió thuận hòa thì năm đó được mùa, còn nếu năm nào thời tiết khắc nghiệt thì mất mùa cuộc sống bấp bênh. Mặt khác làm nương rẫy là phá rừng, huỷ hoại môi sinh, môi trường ảnh hưởng đến đời sống con người, chỉ làm ruộng nước mới chủ động, con người có thể áp dụng kỹ thuật, đưa năng suất sản lượng lên cao. Do vậy, trong nhận thức, người Thái cho rằng dù nương rẫy rộng bao nhiêu cũng không chắc ăn bằng một thửa ruộng con.
Ý thức làm ruộng còn được thể hiện thông qua việc lập mường, bản. Mường, bản của người Thái Thanh Hóa nói chung bao giờ cũng theo nguồn nước, nơi nào có sông suối thì nơi đó có người Thái thành lập bản mường. Hướng nhà của người Thái thường dựa lưng vào núi, mặt trước nhà quay ra hướng sông suối hoặc cánh đồng để tận hưởng nguồn nước:
Kháu dú nà, pa dú nặm
Chăm chắng đáy kín, non nghin tai giác

Lúa dưới ruộng, cá dưới nước


Khéo làm có ăn, siêng nằm chết đói

Do gắn bó lâu đời với nghề lúa nước nên trong kho tàng tri thức dân gian Thái Thanh Hóa còn bảo lưu được nhiều kinh nghiệm liên quan đến nghề gieo trồng lúa nước. Quá trình khai khẩn đất đai làm ruộng nước đã giúp người Thái rút ra nhiều kinh nghiệm, chọn những nơi đất màu mỡ để sản xuất và sáng tạo ra ruộng bậc thang. Từ lao động sáng tạo, người Thái tạo ra sự liên kết sức mạnh cộng đồng, sức mạnh ấy có cội nguồn từ nhu cầu tạo ra nhiều lúa gạo để nuôi sống con người.

2. Tục ngữ về khuyến lâm

Người Thái Thanh Hóa nói:
Tái pá phăng, nhằng pa liệng
Sống rừng nuôi, chết rừng chôn
Vic bo v rng, trng rng, nuôi dưỡng rng đã t lâu là trách nhim ca cng đồng, tr thành lut l ca bn mường được người Thái lưu truyn qua các thế h:
Dom pá by lùn lăng chng má
By h nm chú bó láy lông
Ph ch đáy khoàm nn mn chng pên cn

Gi rng cho muôn đời phát trin


Để cho muôn mó nước tuôn trào

Ai nh được câu y thì thành người
Quan niệm của người Thái là rừng phải có cây cổ thụ che chắn cho các cây con và muôn loại sinh vật phát triển, cũng ví như trong bản trong mường có người già làm trụ cột, hướng dẫn con cháu xây dựng bản mường phát triển. Nhờ rừng có nhiều cây cổ thụ mà giữ được mùn, đất cằn tái sinh, mùn rác không trôi xuống lấp ruộng, nghẽn suối, nước mưa ngấm vào lòng đất ngăn những cơn lũ ống, lũ quét. Cách ứng xử với rừng như vậy là rất khoa học và nhân văn trong cái nhìn sinh thái học:
Pa đông xông cột
Mạy mí khôn
Cần mí nuốt

Rừng bạt ngàn


Cây có lông (cây cổ thụ gốc mọc rêu)

Người có râu

3. Tc ng v khuyến hc

Người Thái rất coi trọng việc học hành, tôn trọng thày giáo, cô giáo, người đã dạy cho mình vào đời, đồng thời cũng khuyên mọi người phát huy tính tự lực, tự cường không trông chờ ỷ lại, thể hiện qua câu tục ngữ:
Pó mé tạy, báu qua xày xon
Xày xón báu pớn chớ bòn há ngắm

Bố mẹ dạy không bằng thầy giáo dạy


Thày giáo dạy không bằng mình tự suy

Xác định việc học hành là việc lâu dài, học suốt đời, còn sống còn phải học:
Hóc lặc hóc cún tai
Hóc lài hóc tặm thấu

Học khôn học đến khi chết


Học khéo học đến già

Một mình nghĩ không tròn, một thân lo không được, vàng mười xếp chật kho, chẳng biết liệu lo cũng bằng vàng rỉ. Học thày học bạn vô vạn phong lưu. Làm người mà được khôn ngoan, cũng nhờ học tập mọi đàng mới hay, nghề gì ta có trong tay mai sau rồi cũng có ngày có ích.

4. Tục ngữ khuyến cần

Tục ngữ Thái ca ngợi, khích lệ người siêng năng chăm làm và làm ăn có tính toán biết gắn cuộc sống của người lao động đối với vai trò, vị trí của mình trong xã hội, được xã hội quý mến, trân trọng. Ngay từ ngày mới trưởng thành con trai Thái phải học những việc cần thiết của người đàn ông như đan lát, tập chặt dao, rìu, tập cầm cày bừa…, con gái Thái phải học dệt thổ cẩm, thêu thùa, may vá, các công việc nội trợ:
Ba háp lua
Hua pế đớp
Xong hặc hẹ ki níp pó tong
Xong mớ híu mác phặc

Vai gánh củi


Đầu gùi bế


Hai nách kẹp bó dong


Hai tay ôm bó rau quả

Khoóng só báu pò mự
Khoong sự báu pò mùa
Ệt đáy, đáy kin, non nghin tai giác

Của xin không đủ ngày,


Của mua không đủ năm,


Chăm làm có ăn, siêng nằm chết đói

Giác mì kin nhà nắng
Giác ệt hắng nhà non

Muốn có ăn đừng siêng ngồi


Muốn giàu đừng siêng nằm

Ngân khăm khoong phi phạ
Kháu nặm khoong phi then
Khoé khén ệt sớ đáy

Vàng bạc là của trời


Gạo nước là của then,


Khỏe tay làm sẽ được

Những câu tục ngữ trên xây dựng đức tính yêu chuộng người ham làm, quý người xốc vác, ghét người nhác việc. Lười biếng chẳng ai thiết, siêng việc ai cũng mời chào

5. Về giáo dục cách sống, cách ứng xử

Tục ngữ Thái còn dạy đạo làm người, giáo dục mọi người đoàn kết sống vì cộng đồng, ăn ở phải có trước có sau, sống có phường có bạn, sống ngay thẳng thật thà, tôn trọng người già, quý trọng trẻ em:
Cần nứng ngắm báu no
Cần nứng lo báu khóp

Một người nghĩ không nổi


Một người lội không khắp

Người Thái quan niệm, sống lẻ loi không bạn bè dù có tài giỏi đến mấy cũng không thể xây dựng nên làng, nên bản. Muốn xây dựng nên làng nên bản cần phải đoàn kết tập hợp nhiều người có già, có trẻ:
         Lai móc pin phn
Lai cần pin bán

Nhiều mây trời mới đổ mưa


Nhiều người mới nên làng nên bản

Ệt phục nom phạ đáy dú đi
Ệt phục nom phi đáy dú tháu
         Làm phúc vi tri thì được hưởng lc đến già

Làm phúc với ma thì được thọ thêm tuổi

Trong giao tiếp hàng ngày, cộng đồng người Thái cũng chú ý và giáo dục cho mọi người cái nên làm, cái không nên làm:
Úp phái ngắm
Hắm phái dành
         Nói phi suy

Đi phải nhìn

Giác kin bán sớ púc cuối
Giác thức xội sớ lặc khoài
Giác tái xớ ín mưa pí noọng

Muốn ăn ngọt thì trồng chuối


Muốn có tội thì trộm trâu


Muốn mất đầu thì yêu vợ người ta

Phép lịch sự với khách đến nhà:
Khéch táu hươn tí má
Cú mà hươn linh nọi

Khách đến nhà đừng đánh chó


Có bạn đến chớ đánh con

Mặc nòn nhà đăng lua đóc
Pác phóc nhà dú khớ tàng

Hay ngủ đừng đốt củi mục


Hay nói tục chớ ở gần đường

Về tính cộng đồng, quan niệm của người Thái Thanh Hóa cho rằng vỗ tay cần nhiều ngón, bàn kỹ cần đông người, nhiều cây làm nhà mới đẹp, nhiều cột chống vững sàn, nhiều anh em nhà mới vui vẻ, sống có bạn có phường mới hay, biết lo thì được vợ. Chớ eo xèo cơm đãi khách, chỗ dơ dếch chớ qua lại, chớ lê la nói mách, chớ nói dối ăn gian, không đi tắt về ngang, làm người phải trông rộng nghe xa, biết luật, biết lý mới là người tinh, rõ đường phải trái phân minh, sống có nghĩa có tình mới nên.
Kho tàng tục ngữ của người Thái Thanh Hóa là một trong những phương tiện để giáo dục con người trong gia đình và xã hội. Từ những câu tục ngữ cùng chủ đề, người Thái đã xâu chuỗi thành những bài ca có vần điệu, nhằm răn dạy con người cách sống. Những bài này được người Thái chép tay và lưu truyền phổ biến qua nhiều thế hệ trong cộng đồng bản mường, được truyền gọi là những bài răn dạy:

         Xng lúc páy tài khoam mó phí

Luc óc chặm khinh pó ơi
Táng nghin tộc nhăng mi chớ khấn
Pó khoắm lụm bàu mi mớ khưn ma
Bậu khoam chá khoam chiên hớ luc
Chắng xứp bạy mưa ná ệt cân
Dú luân lằng tánh hươn đà xáng
Húa chớ quáng măn chắng ệt pín…

         Dn con trước lúc nhm mt đi xa

Con quý, con yêu ơi
Mặt trời lặn đến khi lại mọc
Bố ra đi không trở lại bao giờ
Phải nói lời chia tay vĩnh biệt
Dặn dò con điều ăn ở làm người
Con ở lại muốn nhà cao cửa rộng
Phải có tấm lòng thương mến bao dung…(2)
Tục ngữ Thái Thanh Hóa là một kho trí tuệ, một kho cái khôn cái khéo của người Thái, đồng thời nó cũng chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử, dân tộc học mang đậm bản sắc dân tộc từ cách nghĩ, cách nói. Tục ngữ Thái Thanh Hóa đã tồn tại và phát triển cùng với những người sáng tạo ra nó hàng bao đời nay. Đó là một nguồn tri thức bản địa trong văn hóa phi vật thể của người Thái Thanh Hóa.

_______________
1. Tục ngữ giới thiệu trong bài viết là tư liệu sưu tập của Hà Nam Ninh, Phạm Quang Thẩm.
            2, Tác giả giới thiệu toàn văn bằng tiếng Thái và dịch. Vì lý do kỹ thuật, tòa soạn chỉ xin trích ít câu.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 313, tháng 7-2010

Tác giả : Trần Sinh

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *