“Em đố chàng: Hoa gì sớm nở tối tàn/Trắng, hồng, đỏ thẫm, tím than trong ngày?/Hoa gì trắng đỏ cùng cây?/Hoa gì đêm nở, ban ngày cấm cung? Phù dung sớm nở tối tàn/Năm màu thay đổi chan chan trong ngày/Hoa giấy trắng đỏ cùng cây/Hoa quỳnh đêm nở, ban ngày cấm cung…”. Lời điệu hát ống, hát ví ngọt ngào, da diết ấy đã được người dân thôn Hậu, xã Liên Chung, huyện Tân Yên (Bắc Giang) đánh thức sau nhiều năm chìm trong quên lãng.
Chiếc ống được xem như là một cái loa để nghe và cũng là Micro để hát.
Vang lên từ ruộng lúa
Tưởng như hát ống, hát ví giờ chỉ còn trong ký ức của nhiều người, bởi loại hình sinh hoạt văn hóa độc đáo này đã chính thức vắng bóng từ những năm 60 của thế kỷ trước. Vậy mà giờ đây, những điệu hát dân dã, ngọt ngào ấy đã sống lại nhờ sự tâm huyết của người dân thôn Hậu. Với tôi, lần đầu tiên được thưởng hát ống, hát ví quả thật lạ lẫm và cuốn hút. Chỉ qua những nhạc cụ thô sơ là ống tre ngà, sợi tơ mỏng manh đã tạo nên một “đặc sản” tinh thần hiếm nơi nào có được. Theo những cụ cao niên trong thôn, hình thức nghệ thuật này thường được hát trong các buổi đi cấy, đi cày, làm cỏ, tát nước… Những người nông dân Liên Chung hát đối đáp, giao duyên để bớt đi những mệt nhọc ngày mùa. Chính vì thế, người Liên Chung gọi hình thức hát này với những cái tên mộc mạc hơn, gần gũi hơn: hát cày, hát cấy, hát vơ cỏ…
Ở Liên Chung có ba hình thức hát ví là: Ví lẻ, ví vặt và ví cuộc. Ví lẻ, ví vặt có thể hát bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu với mọi đề tài có mà người hát quan tâm. Ví cuộc thường được hát trong những buổi lễ hội với ba giai đoạn: hát chào hỏi, hát giao duyên, nguyện ước và hát tiễn dặn… Nhưng dưới hình thức nào cũng phải có hai bên, thường là một bên nam, một bên nữ. Còn hát ống về bản chất vẫn là hát ví nhưng hai bên hát vào một dụng cụ là chiếc ống tre được bịt da ếch, kết nối với nhau bởi một sợi tơ (như một chiếc micro). Khi một bên hát, âm được truyền qua chiếc ống và đến với người nghe. Tùy thuộc vào cự ly hát mà sợi dây ngắn hay dài, thường thì độ dài khoảng 60 – 70 sải tay. Khi bên này hát, âm thanh làm các màng ếch rung lên, tín hiệu âm thanh truyền qua sợi dây tới ống bên kia, người nghe dù đứng xa cả chục mét vẫn nghe rõ tựa như phát ra từ loa nhỏ.
Ông Ngô Xuân Nguyên – Chủ nhiệm CLB hát ống – hát ví Liên Chung cho biết: So với các hình thức dân ca khác, hát ví, hát ống có giai điệu khá đơn giản, gần gũi và thường là những câu lục bát vần vè rất dễ nhớ dễ học, dễ thuộc. Đồng thời thể hiện tài ứng khẩu rất tài tình, thông minh, dí dỏm, đôi khi chanh chua. Trong hát ví có thể hát những câu bông đùa, trêu chọc nhau, có thể gây cho bên kia sự bực tức nhưng không bao giờ ghét bỏ, không giận hờn. Ngày xưa các tay thợ cày, thợ cấy, thợ nề… có thể gác tất công việc một bên để tham gia các canh hát. Có những canh hát kéo dài cả ngày trời, có thể kéo dài cả tuần trăng. Lời ca của hát ống – hát ví chủ yếu được làm theo thể thơ lục bát, vần vè và rất dễ nhớ.
Hát ống hát ví còn được gọi là hát vơ cỏ, đi cấy
Dẫu rằng đá nát mà vàng chưa phai
Trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế ở thời kỳ hòa hoãn lần thứ hai (1897-1909) đã diễn ra nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ trong đó hát ví, hát ống được khá đông người hâm mộ. Ông Cả Trọng (con trai cả của Đề Thám) cũng là một trong những người hát ví hay nhất trong nghĩa quân đất hùm thiêng.
Lời hát ví dân dã mà không kém phần bay bổng đã nuôi dưỡng tâm hồn những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn. Ví như trong một làn điệu bên nữ hỏi rằng: “Em đố chàng/Ở đâu tựa thế vòng cung?/Dãy nào liền mạch trập trùng núi non/Nơi đâu 99 ngọn chon von/ Muôn năm soi bóng bên dòng nước xanh…” Nam sẽ đáp lại: “Bắc Giang tựa thế vòng cung/Đông Triều liền mạch trập trùng Bắc Sơn/Phượng Hoàng 99 ngọn chon von/Muôn năm soi bóng bên dòng nước xanh”… Trải qua hàng trăm năm, những giá trị mà người Liên Chung gìn giữ thông qua những câu hát ví, hát ống thật đáng trân trọng. Dẫu chưa có một chủ trương nào của Nhà nước trong việc bảo tồn nhưng hát ví vẫn được lưu truyền, khôi phục tự nhiên thông qua các buổi sinh hoạt cộng đồng như liên hoan văn nghệ quần chúng hay qua những câu hát ru mà các bà, các mẹ thường hát con cho cháu nghe.
Biểu diễn hát ống, hát ví tại thôn Hậu, xã Liên Chung.
Bà Nguyễn Thị Nga (thôn Hậu, xã Liên Chung), năm nay đã ở tuổi “xưa nay hiếm” kể: Không biết hát ống, hát ví xuất hiện từ khi nào ở đất Liên Chung, chỉ biết, khi bà 15 tuổi đã theo các mẹ, các cụ đi hát ở đình, ở chùa. Trai gái yêu nhau cũng từ những ca từ ngọt ngào, da diết ấy. Nói rồi bà Nga nhẩm hát theo một làn điệu tha thiết: “Phải lòng nói trước làm chi/Làng em làng Hậu, nhà thì ngõ Trong/Nếu ai đã hỏi thật lòng/Thời em chẳng giấu kẻo lòng hoài nghi/Bờ đê đường cũng dễ đi/Về thôn Liên Bộ nhà thì gần sông/Duyên đâu vương sợi tơ hồng/Thành ra tri kỷ, mặn nồng cũng nên”.
Ông Dương Minh Hiểu, Phó Chủ tịch UBND xã Liên Chung cho biết: “Khó khăn lớn nhất là hình thức nghệ thuật này đã bị mai một cách đây khoảng hai chục năm, những nghệ nhân có tâm huyết hiện nay không còn nhiều, kinh phí hoạt động của Câu lạc bộ còn hạn hẹp. Do đó, thời gian tới, các cơ quan chuyên môn từ xã đến thôn sẽ ủng hộ câu lạc bộ hết mức, trích một phần ngân sách Nhà nước để hỗ trợ cho công tác sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn những lời hát cổ. Trong một kế hoạch dài hơi hơn, chúng tôi cũng đang tính đến việc đưa hát ví, hát ống vào trong các trường học trong xã để giới thiệu cho thế hệ trẻ biết và trân trọng một giá trị văn hóa, tinh thần to lớn của quê hương”.
Tác giả: Ngoan Phạm
Nguồn: Tạp chí VHNT số 450, tháng 1-2021
Bài viết cùng chủ đề:
Note ngay các trải nghiệm du lịch Huế dịp Valentine chi tiết nhất
Tổng kết công tác thi đua Văn hóa, Thể thao và Du lịch Cụm Bắc Trung Bộ
HÒA BÌNH: Hội thảo khoa học Kỷ niệm 70 năm Chiến dịch Hòa Bình (1951 – 2021)