Bảo vệ nguồn nước ở các làng nghề Việt Nam hiện nay

Thực hiện Nghị định số 134/2004/NĐ-CP ngày 9-6-2004 của Chính phủ về “Khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn” và Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07-7-2006 của Chính phủ về “Chính sách phát triển ngành nghề nông thôn”, nhiều làng nghề được khôi phục và phát triển, tốc độ mở rộng các làng nghề truyền thống diễn ra khá nhanh. Theo báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn 2011-2015, số làng nghề và làng có nghề nước ta là 5.096, trong đó số làng nghề truyền thống được công nhận theo tiêu chí làng nghề hiện nay của Chính phủ là 1.748 làng nghề, tạo được việc làm tại chỗ cho hàng chục vạn lao động, góp phần ổn định đời sống người dân và phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, đi kèm với đó là những áp lực không nhỏ tác động lên nguồn nước, gây ô nhiễm và suy giảm nghiêm trọng.

Báo cáo Môi trường quốc gia 2012 – Môi trường nước mặt đã chỉ ra các nguồn gây ô nhiễm môi trường nước, trong đó có sự tác động từ hoạt động sản xuất của các làng nghề. Đồng bằng sông Hồng là khu vực tập trung làng nghề nhiều nhất trong cả nước, với gần 900 làng nghề (chiếm xấp xỉ 60% tổng số làng nghề trong cả nước); lưu vực hệ thống sông Đồng Nai có khoảng 710 làng nghề tiểu thủ công nghiệp với nhiều loại hình làng nghề khác nhau như chế biến thực phẩm, chế biến gỗ, sản xuất giấy, gốm sứ, kim loại… Nước thải từ các làng nghề là tác nhân trực tiếp gây suy thoái, ô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước tại chính các làng nghề cũng như các vùng lân cận, ảnh hưởng tới sức khỏe người dân và ngày càng trở nên bức xúc, được cộng đồng hết sức quan tâm. Ô nhiễm môi trường nước ở mỗi loại hình làng nghề có những đặc trưng khác nhau.

Đối với nhóm làng nghề lương thực thực phẩm, rất ít làng nghề có hệ thống xử lý nước thải, toàn bộ lượng nước thải sản xuất, nước thải sinh hoạt, chất thải chăn nuôi mà chủ yếu trực tiếp xả ra hệ thống kênh rạch, sông ngòi, làm nguồn nước đổi màu, có mùi hôi, tác động lớn đến nguồn nước ngầm và ảnh hưởng đến hoạt động nuôi trồng thủy sản cũng như sản lượng hoa màu, tạo điều kiện cho các ổ dịch bệnh phát triển.

Đối với nhóm làng nghề cơ khí, mạ, đúc, tẩy, nhuộm, sử dụng các hợp chất vô cơ độc hại như axít, bazơ, muối, kim loại nặng… Đây là những nguồn ô nhiễm cực kỳ nguy hiểm, nhất là nước thải dệt nhuộm được xếp vào loại nước thải nguy hiểm nhất trong các loại nước thải, gây ra các bệnh hiểm nghèo cho người dân địa phương và các vùng lân cận. Ngoài ra, các chất màu, xơ sợi ở các làng nghề dệt, tẩy nhuộm, sơn mài, ươm tơ… làm cho nguồn nước chuyển màu, tăng hàm lượng chất hữu cơ, mùi khó chịu, giảm lượng ô xy hòa tan trong nước, ảnh hưởng tới môi trường sống của các loài động, thực vật thủy sinh, ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt. Có thể kể đến một số làng nghề có nước thải gây ô nhiễm môi trường như:

Làng nghề sản xuất bún, bánh và dịch vụ xóm Chùa (xã Phú Nham, huyện Phù Ninh, Phú Thọ) có 70 hộ làm nghề, trong đó có 24 hộ làm bún, bánh. Số hộ tham gia sản xuất không nhiều nhưng do quy trình sản xuất lạc hậu, nước thải với hàm lượng tinh bột lớn không được xử lý triệt để khiến môi trường xung quanh, đặc biệt là nguồn nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Làng nghề Vân Chàng ở Nam Định có 14 bể mạ, hàng ngày thải trực tiếp ra sông Vân Chàng 40 – 50 m3 nước thải chưa được xử lý, chứa nhiều hóa chất độc hại nguy hiểm như HCL, NaOH, Cr hay HCN… Kết quả phân tích nước thải cho thấy, hàm lượng Cr6+ vượt 1,8 lần, Cu2+ vượt 1,7 lần, BOD và COD vượt TCCP 3 – 4 lần, Niken vượt 8 lần, đặc biệt, hàm lượng CN trong nước thải vượt 65 – 117 lần…

Chỉ tính riêng hơn 880 hộ gia đình nấu rượu tại Vân Hà (Bắc Giang) luôn nuôi từ 15.000 – 20.000 con lợn, mỗi ngày phát sinh khoảng 1.500m3 nước thải đổ trực tiếp ra hệ thống cống rãnh, ao hồ làm cho hàm lượng các chất ô nhiễm vượt các quy định cho phép của cột B1 QCVN 08:2008/BTNMT nhiều lần: BOD5 từ 7,5 – 10,1 lần; amoni từ 34,5 – 96,2 lần (nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường Bắc Giang, 2012).

Trên địa bàn xã Phong Khê, huyện Yên Phong và khu sản xuất giấy Phú Lâm, Tiên Sơn, Bắc Ninh có đến gần 100 xí nghiệp nhỏ và 70 phân xưởng sản xuất nhỏ tạo ra mỗi ngày khoảng trên 3.000 m3 nước thải chứa các hóa chất độc hại như xút, chất tẩy rửa, phèn kép, nhựa thông, javen, ligin, phẩm màu… Đoạn sông Cầu chảy qua ranh giới Bắc Giang, Bắc Ninh giữa huyện Việt Yên (Bắc Giang) và Yên phong (Bắc Ninh) bị ô nhiễm nghiêm trọng, nước sông múc lên để sau 2 giờ là có mùi hôi thối (nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường Bắc Ninh, 2012).

Nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm nguồn nước ở các làng nghề hiện nay là do hầu hết các cơ sở sản xuất có quy mô nhỏ, phân bố rải rác thiếu tập trung, các cơ sở sản xuất nằm trong khu dân cư, mặt bằng chật hẹp nên khó xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung. Bên cạnh đó, phần lớn công nghệ và kỹ thuật áp dụng cho sản xuất trong các làng nghề còn lạc hậu, manh mún, mang tính cổ truyền; các hộ sản xuất chưa đầu tư thích đáng cho xử lý nước thải nên hầu hết nước thải sản xuất chưa qua xử lý cùng nước thải sinh hoạt được xả trực tiếp vào hệ thống thoát nước mặt. Trong khi, công tác quản lý và những giải pháp bảo vệ nguồn nước chưa được quan tâm đúng mức, ý thức và nhận thức của người dân về bảo vệ nguồn nước chưa cao. Vì vậy, ô nhiễm, suy thoái nguồn nước đã và đang tiếp tục trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đến môi trường sinh thái, sức khỏe cộng đồng dân cư sống trong các làng nghề cũng như xung quanh làng nghề và chính sự phát triển của các làng nghề.

Trước yêu cầu phát triển làng nghề ở Việt Nam và thực trạng ô nhiễm, suy thoái nguồn nước diễn biến ngày càng phức tạp thì việc bảo vệ nguồn nước ở các làng nghề hiện nay phải được nhìn nhận và quan tâm đúng mức, trong thời gian tới cần giải quyết tốt một số vấn đề chủ yếu sau:

Một là, nâng cao năng lực quản lý và hoàn thiện cơ chế, chính sách bảo vệ nguồn nước ở các làng nghề 

Tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý nhà nước và tăng cường bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về xử lý nguồn nước thải tại các làng nghề cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên trách quản lý môi trường cấp huyện, xã. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý giữa các cấp, các ngành đối với việc bảo vệ nguồn nước ở các làng nghề. Tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ trong quản lý, bảo vệ nguồn nước tại các làng nghề, đặc biệt là sự phối hợp giữa cơ quan quản lý môi trường với lãnh đạo các địa phương, nhằm giải quyết triệt để vấn đề nước thải tại các làng nghề. Đẩy mạnh phối hợp thanh, kiểm tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật về xử lý nguồn nước thải tại các làng nghề để đưa vào danh sách các làng nghề gây ô nhiễm nghiêm trọng cần phải xử lý triệt để theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và áp dụng công cụ kinh tế về bảo vệ môi trường đối với nước thải.

Đồng thời, nghiên cứu hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật, quy định và hướng dẫn thực hiện công tác bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước tại các làng nghề, chú trọng xây dựng những quy định, tiêu chuẩn cụ thể về môi trường cho các nhóm làng nghề, trong đó cần quy định rõ trách nhiệm của địa phương, các ngành, lĩnh vực hoạt động làng nghề. Thường xuyên cập nhật, rà soát, bổ sung điều chỉnh ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền và kịp thời thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về hoạt động bảo vệ môi trường đối với các địa phương có làng nghề, phù hợp với pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Các làng nghề cần tiến hành xây dựng các quy định để bảo vệ nguồn nước dưới dạng các quy định, hương ước, cam kết bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước của chính địa phương mình.

Hai là, tăng cường nguồn lực tài chính, đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động xử lý nước thải tại các làng nghề 

Bảo đảm các nguồn lực về tài chính cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng về xử lý nước thải ở khu vực làng nghề nông thôn theo tinh thần Nghị quyết của Đảng. Có cơ chế chính sách phù hợp nhằm thu hút các dự án xử lý nước thải, thúc đẩy xã hội hóa công tác xử lý nước thải tại các làng nghề. Cùng với đó, phát hiện các mô hình, điển hình tiên tiến trong hoạt động xử lý nước thải tại các làng nghề, kịp thời khen thưởng, động viên, phổ biến, nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến trong bảo vệ nguồn nước. Gắn nội dung xử lý nước thải, bảo vệ nguồn nước với cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới và lấy đó là một trong những tiêu chí để xét khen thưởng gia đình văn hóa, khu dân cư văn hóa, làng, xã văn hóa tại các làng nghề. Đồng thời, bảo vệ nguồn nước phải được xác định là tiêu chí quan trọng khi đánh giá công nhận làng nghề.

Ba là, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về quản lý, bảo vệ nguồn nước ở làng nghề

Chuyển giao công nghệ sạch, công nghệ xử lý nước thải tiên tiến cho các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ theo hướng vận hành đơn giản, ổn định, tiết kiệm chi phí và xử lý ô nhiễm môi trường nước đạt hiệu quả. Những cơ sở mở rộng sản xuất phải thực hiện cam kết bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước và đầu tư theo hướng công nghệ thân thiện với môi trường. Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu áp dụng sản xuất sạch cho phù hợp với từng loại hình làng nghề và phổ biến, nhân rộng mô hình sản xuất sạch.

Ngoài ra, cần chủ động hợp tác, hội nhập quốc tế, coi trọng việc tham gia và thực hiện các điều ước quốc tế. Tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm, đối thoại chính sách với các nước trên thế giới về xử lý nguồn nước thải tại các làng nghề và thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ. Đẩy mạnh hợp tác với các nước, các tổ chức, diễn đàn quốc tế về bảo vệ nguồn nước, tiếp cận công nghệ mới và huy động nguồn lực cho giảm phát nguồn nước thải ở các làng nghề. Thúc đẩy hợp tác Á – Âu, châu Á – Thái Bình Dương, khu vực Đông Á, ASEAN, tiểu vùng sông Mê Công về xử lý nguồn nước thải tại các làng nghề.

Bốn là, đẩy mạnh thông tin tuyên truyền chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, giáo dục, nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước cho người dân tại các làng nghề

Các hoạt động truyền thông của đài, báo cần mở thêm những trang chuyên đề về môi trường, về tài nguyên nước phong phú và đa dạng cả về nội dung và hình thức để chuyển tải thông tin, nhằm thay đổi nhận thức, thói quen, tập quán sản xuất, sinh hoạt của người dân, các hộ sản xuất, kinh doanh tại các làng nghề. Bên cạnh đó, gắn nội dung bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước với tiêu chí thi đua, xây dựng nông thôn mới; Phát động các phong trào xây dựng môi trường văn hóa, làng xóm xanh – sạch – đẹp, trồng cây, bảo vệ rừng, bảo vệ các con sông, kênh, mương… Khuyến khích xây dựng các thôn bản, làng nghề, doanh nghiệp đạt chuẩn mực quốc tế về xử lý nước thải, đồng thời kiên quyết đấu tranh, xử lý triệt để những việc làm sai trái, những hành vi phá hoại các nguồn nước.

Làng nghề truyền thống là nét đặc trưng của văn hóa nông thôn, là giá trị của văn hóa dân tộc; khôi phục và phát triển làng nghề là chủ trương đúng đắn, nhằm bảo tồn giá trị của văn hóa dân tộc và đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất tại các làng nghề đang gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường, làm gia tăng ô nhiễm, đó cũng là thách thức lớn đối với Việt Nam trong phát triển làng nghề theo hướng bền vững. Để các giải pháp trên thực sự có hiệu quả, cần có sự vào cuộc và phối hợp đồng bộ, chặt chẽ của cả hệ thống chính trị, từ trung ương đến địa phương, từ các cơ quan quan lý nhà nước trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường đến toàn thể nhân dân ở các làng nghề với một quyết tâm cao. Chỉ có như vậy, môi trường làng nghề Việt Nam mới được trả lại sự trong lành, đời sống và sức khỏe của nhân dân mới được bảo đảm, các giá trị văn hóa dân tộc được bảo tồn, kinh tế – xã hội được phát triển theo hướng bền vững, làng nghề Việt Nam được khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế.

 

Tác giả: Vũ Thị Mạc Dung

Nguồn : Tạp chí VHNT số 410, tháng 8 – 2018

 

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *