Kế thừa Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ 5 năm tới, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: các cấp, các ngành phải nhận thức đầy đủ và thực hiện có kết quả mục tiêu xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Văn hóa trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc tổ quốc vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tư tưởng chỉ đạo này có hai điểm mới nổi bật: xây dựng, phát triển nền văn hóa phải gắn chặt với xây dựng, phát triển con người không tách khỏi cội nguồn dân tộc; văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội, mà còn là sức mạnh nội sinh trực tiếp để phát triển bền vững. Nghị quyết đã khái quát định hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển văn hóa và con người Việt Nam:
Một là, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện trở thành mục tiêu của chiến lược phát triển. Nhiệm vụ này đánh dấu bước phát triển mới về tư duy lý luận văn hóa của Đảng về quan hệ biện chứng giữa văn hóa với con người. Coi phát triển toàn diện con người không chỉ là khâu trung tâm của phát triển văn hóa mà còn là mục tiêu của chiến lược phát triển tổng thể về kinh tế xã hội. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, chỉ rõ: đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật. Các giải pháp thực hiện cũng được chỉ ra cụ thể, trong đó nhấn mạnh về nhận thức, giải pháp kết hợp xây và chống.
Hai là, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cần chú trọng xây dựng môi trường, đời sống văn hóa lành mạnh ở từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống. Như vậy, điểm mới trong nhiệm vụ này được thể hiện là: xây dựng môi trường, đời sống văn hóa phải được triển khai cụ thể vào từng loại hình cộng đồng; hình thức tổ chức cộng đồng là trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con người. Nghị quyết cũng chỉ rõ những giải pháp cụ thể: thực hiện chiến lược phát triển gia đình; xây dựng mỗi trường học thực sự là một trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con người; xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh; nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa; từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa vùng miền và các giai tầng xã hội; phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng.
Ba là, xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Đây là nhiệm vụ mới, liên quan đến tư duy, nhận thức của Đảng về mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa với kinh tế và chính trị. Về xây dựng văn hóa trong chính trị, Nghị quyết chỉ rõ: chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, cơ quan nhà nước và các đoàn thể. Coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Về xây dựng văn hóa trong kinh tế, Nghị quyết chỉ rõ: thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân với ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh vì sự phát triển bền vững của đất nước.
Bốn là, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa. Vấn đề bảo tồn, phát huy di sản văn hóa truyền thống dân tộc, cũng như sáng tạo giá trị mới, được quan tâm hàng đầu. Văn kiện nhấn mạnh: huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc. Khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn hóa dân tộc. Các giải pháp được nêu rõ: xây dựng cơ chế giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế xã hội. Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật, chăm lo đội ngũ văn nghệ sĩ và các hội văn học, nghệ thuật.
Năm là, làm tốt công tác lãnh đạo, quản lý báo chí, xuất bản. Báo chí, xuất bản là lĩnh vực mang tính dẫn dắt về hệ tư tưởng. Ở các nước tiên tiến, người ta coi lĩnh vực báo chí, xuất bản như là quyền lực thứ tư (sau các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp). Báo chí cách mạng Việt Nam đã từng thực hiện tốt vai trò vũ khí tuyên truyền lý luận và văn hóa tư tưởng của Đảng, tuy nhiên trong điều kiện kinh tế thị trường cần được đổi mới. Nghị quyết nhấn mạnh: các cơ quan truyền thông phải thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ, nâng cao tính tư tưởng, nhân văn và khoa học, đề cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, góp phần xây dựng văn hóa và con người Việt Nam. Các giải pháp cụ thể: quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống báo chí, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Chú trọng công tác quản lý các loại hình thông tin trên internet để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ.
Sáu là, phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hóa. Đây là nhiệm vụ mới, liên quan đến tư duy của Đảng về phát triển văn hóa phù hợp với tiêu chí của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tất nhiên, cần phân định xác đáng giữa hai tư cách của công nghiệp văn hóa: tư cách bộ phận của nền kinh tế, thuộc phạm trù kinh tế; tư cách phương thức vận hành nền văn hóa, cách thức công nghiệp trong sáng tạo và cung ứng giá trị văn hóa. Về các biện pháp thực hiện, Nghị quyết chỉ rõ: khuyến khích đầu tư để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ văn hóa; tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thu hút các nguồn lực xã hội để phát triển; hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng thị trường dịch vụ, sản phẩm văn hóa; nâng cao ý thức thực thi quy định pháp luật về quyền tác giả và các quyền liên quan.
Bảy là, chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Nghị quyết chỉ rõ: cần chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với nhiều nước, thực hiện đa dạng hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc, chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức để giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc; hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa.
Tám là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa. Đây là quan điểm cơ bản khẳng định vai trò của thể chế chính trị đối với sự phát triển của nền văn hóa, xuất phát từ nền tảng tinh thần của văn hóa đối với đời sống xã hội. Về sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa, Nghị quyết chỉ ra: đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm để văn hóa, văn học, nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo trên cơ sở phát huy trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân với mục đích đúng đắn; khắc phục sự buông lỏng hoặc mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo.
Về vai trò của Nhà nước đối với văn hóa, Nghị quyết chỉ rõ: tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững; đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa; chấn chỉnh và quản lý tốt các hoạt động lễ hội, rà soát, phát triển hợp lý các thiết chế văn hóa; hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, quyền tác giả và các quyền liên quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam; cần xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa, đồng thời tăng mức đầu tư của nhà nước cho văn hóa tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế, gắn với xã hội hóa nguồn đầu tư.
Như vậy, hệ thống quan điểm của Đảng về lãnh đạo sự nghiệp phát triển văn hóa ngày càng hoàn thiện. Văn hóa thể hiện vai trò to lớn đối với phát triển bền vững mọi lĩnh vực đời sống xã hội, gắn bó chặt chẽ với cách mạng và tiến bộ xã hội, mà trực tiếp là phát triển con người. Nền văn hóa với tính cách một phương diện đời sống xã hội được nhận thức đầy đủ hình hài và vai trò trong xây dựng con người Việt Nam. Đó là bước phát triển theo chiều sâu lý luận văn hóa, cho phép hoàn thiện hệ quan điểm và cụ thể hóa thành chiến lược, thể chế, thiết chế… phát triển văn hóa Việt Nam trong hội nhập.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 394, tháng 4-2017
Tác giả : ÂU THỊ HỒNG THẮM
Bài viết cùng chủ đề:
Định hướng giá trị yêu nước cho thế hệ trẻ hiện nay
Hồ chí minh – người khai sinh danh nhân văn hóa thời hiện đại
Ngoại giao văn hóa trong chính sách phát triển của việt nam