Góp phần bảo tồn di sản dân ca Mường ở Phú Thọ trong xã hội đương đại

Đặt vấn đề

Phú Thọ cái nôi, khởi nguồn của nhà nước Văn Lang qua 18 đời vua Hùng gây dựng. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, dựng nước và giữ nước, Phú Thọ còn là nơi lưu giữ và bảo tồn một khối lượng lớn các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng quý báu và được tổ chức UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, như: Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và Hát xoan Phú Thọ

Phú Thọ là vùng đất có nhiều giá trị văn hóa phong phú, đặc sắc. Vùng văn hóa Phú Thọ đã phản ánh một chặng đường của quá trình phát triển văn hóa Việt Nam từ xưa đến nay, điều đó đã góp phần tạo nên một kho tàng văn hóa, văn nghệ dân gian độc đáo, nhiều màu sắc của các dân tộc anh em trong đó có dân tộc Mường. Theo số liệu thống kê năm 2018 của Ban Dân tộc tỉnh Phú Thọ, hiện có hơn 20 dân tộc cùng sinh sống địa bàn, với 1,4 triệu người trong đó dân tộc Mường có trên 200.000 người, chiếm 14,28% dân số trong toàn tỉnh và chiếm khoảng 87% trên tổng số dân là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Phú Thọ.

Là dân tộc có số dân đông đứng thứ hai trong toàn tỉnh (sau người Kinh), người Mường ở Phú Thọ đã lưu giữ được nhiều loại hình hoạt động văn hóa nghệ thuật độc đáo. “Bà con trong các chòm bản có thể ngồi suốt đêm này đêm khác nghe ông “Rang” kể các truyện thơ dài như Nàng Nga, Hai Mối, Nàng Út Lót… hay nghe hát xường, hát ví, hát rang, éo, hát mo, hát mỡi… hoặc nghe kể các truyện cổ xưa về nguồn gốc loài người, về cái thiện cái ác, về dân tộc mình mà tiêu biểu nhất là bài mo dài Đẻ đất – đẻ nước” (1)… đã thể hiện sự quan tâm của bà con đến các loại hình nghệ thuật dân gian của dân tộc mình.

Tuy nhiên, do “sự xáo trộn trong dân cư, sự giao lưu của các nền văn hóa, sự phát triển những phương tiện truyền thông mới, sự thay đổi lối sống, sự xâm nhập của các thế lực mới về âm nhạc và khiêu vũ từ phương Tây lại có các phương tiện kỹ thuật và tài chính quan trọng đã làm cho các truyền thống dân tộc và các di sản văn hóa của các khu dân cư Việt Nam là dân tộc Kinh và cả các dân tộc thiểu số bị một cú sốc mạnh kéo theo sự chùn bước, suy yếu, có lúc mất hẳn những bản nhạc và điệu múa cổ truyền” (2). Vì vậy, việc bảo tồn văn hóa, văn nghệ của tỉnh nói chung và dân ca Mường nói riêng là việc làm thiết thực và rất cấp bách hiện nay.

Luận giải vấn đề

Bảo tồn di sản văn hóa, đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc trong bối cảnh hội nhập hiện nay góp phần khẳng định những giá trị tinh thần đặc trưng, đa dạng của đất nước và con người Việt Nam trước bạn bè năm châu. Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của tổ chức UNESCO đã khẳng định: “Di sản văn hóa phi vật thể được các cộng đồng và các nhóm không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục…”(3). Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa nói chung, dân ca Mường nói riêng trong bối cảnh hội nhập sâu rộng hiện nay là một việc làm có ý nghĩa thiết thực đối với tất cả các thế hệ người Việt Nam. Để có thể lưu giữ được vốn văn hóa dân gian cổ truyền mà không bị mai một, đối tượng chúng ta phải hướng đến chính là những chủ thể sáng tạo, những con người đã tạo nên hệ thống các loại hình văn hóa dân ca dân gian. Nghiên cứu đến bảo tồn và phát huy trong cuốn Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam, nhà nghiên cứu Nguyễn Chí Bền đã từng khẳng định: “Nói đến di sản văn hóa dù là vật thể hay phi vật thể là nói đến vấn đề chủ thể sáng tạo, khách thể tiếp nhận của những di sản văn hóa này. Lâu nay, mỗi khi nói đến những sáng tác văn hóa dân gian, những di sản văn hóa phi vật thể, câu nói quen thuộc của chúng ta: đó là những sáng tác của nhân dân lao động” (4). Đồng thời, tác giả cũng viện dẫn quan điểm của nhà nghiên cứu văn học dân gian nổi tiếng V.Guxep (Liên Xô cũ) về vai trò của nhân dân lao động trong cộng đồng xã hội nói chung đối với việc “quyết định nội dung và hình thức cụ thể của văn hóa dân gian mỗi thời đại” (5).

Nói đến âm nhạc dân gian của người Mường nói chung, chúng ta có thể thấy, người Mường ở Phú Thọ cũng có một hệ thống các loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian độc đáo, đó là những lời ca, bài bản do những người dân lao động đã sáng tạo ra trong quá trình lao động, sinh hoạt, phản ánh những niềm vui, nỗi buồn, những suy tư trăn trở trong cuộc sống hằng ngày của con người. Đó là những lời tâm tình, thủ thỉ trong tình yêu đôi lứa, những câu ca hò vè trao đổi kinh nghiệm trong lao động sản xuất…, tất cả đều được cất lên bằng những giai điệu mượt mà, sâu lắng mang đặc trưng của loại hình nghệ thuật dân ca, nhằm phục vụ cho chính những nhu cầu trong đời sống của con người. Dân ca được “bắt nguồn từ lao động” (6), do đó, nó được coi là thứ ngôn ngữ thay cho lời nói trong giao tiếp, là lời thỉnh cầu để trao đổi với đấng thần linh, là những chất chứa, những ước mơ về một ngày mai tươi đẹp… Sự phong phú, đa dạng của các thể loại dân ca dân gian Mường đã đóng góp to lớn cho không gian nghệ thuật dân ca của tỉnh Phú Thọ nói riêng và của Việt Nam nói chung.

Không gian văn hóa nghệ thuật dân gian Mường ở Phú Thọ nổi bật với nhiều loại hình, nhiều hình thức biểu diễn đa dạng, phong phú, chúng được lưu giữ theo từng vùng, từng địa phương với từng thể loại mang tính nổi bật mà khi nhắc đến mỗi một vùng người Mường, người ta có thể hình dung đến ngay những thể loại văn hóa nghệ thuật đặc sắc điển hình như: người Mường vùng Thanh Sơn múa trống đu, múa sênh tiền, đâm đuống. Người Mường vùng đất Tân Sơn lại nổi bật hơn cả với hát rang – một hình thức ca hát đời thường của cuộc sống con người. Khi nhắc đến thể loại múa sênh tiền Tiên đồng ngọc nữ hay thể loại hò đu… chúng ta lại hình dung đến vùng Mường thuộc huyện Yên Lập. Những loại hình hoạt động nghệ thuật dân gian này đã có sức lôi cuốn, tạo nên sức sống mạnh mẽ, giúp cho người Mường có được tiếng nói riêng trong đời sống tinh thần, tạo nên sự gắn kết chặt chẽ trong cộng đồng cũng như tạo nên nét khác biệt mà không phải bất cứ dân tộc nào cũng có được.

Văn hóa Việt Nam rất đa dạng và phong phú, điều này luôn luôn được khẳng định bởi sự đa dạng trong sắc màu văn hóa dân tộc ở Việt Nam. Là một quốc gia đa dân tộc, trong đó mỗi thành phần dân tộc lại có những đặc trưng văn hóa dân gian độc đáo tạo nên sự đa dạng, phong phú. Mỗi cộng đồng dân cư trong hệ thống các dân tộc ở Việt Nam luôn tự hào với văn hóa dân gian nói chung, dân ca nói riêng của dân tộc mình. Những tâm tư tình cảm, những kinh nghiệm trong cuộc sống, những lề thói, tập quán… luôn được thể hiện trong giai điệu của dân ca. Dân ca được cất lên trong hầu hết mọi hoạt động sinh hoạt của con người trong cộng đồng, từ quá trình lao động tay chân vất vả đến những lúc suy tư, tâm sự rồi cả trong giấc ngủ êm đềm của trẻ thơ, “Mỗi loại dân ca từ khi ra đời và trong quá trình tồn tại, nó đều có mục đích và đối tượng rõ ràng, đều gắn bó với môi trường và quy cách nhất định, phù hợp với những suy nghĩ, tình cảm và thẩm mỹ của xã hội đương thời” (7). Dân ca người Mường cũng vậy, đó cũng là những tâm tư, những suy nghĩ trăn trở của con người trước cuộc sống, đó cũng là những tâm sự, khúc mắc, tâm tình thủ thỉ của tình yêu đôi lứa…

Qua quá trình điền tại các vùng Mường của tỉnh Phú Thọ, chúng tôi nhận thấy người Mường nói chung hiện nay luôn đáp ứng đầy đủ theo nhu cầu phát triển chung của xã hội, đồng thời, những gì là bản sắc, là hồn cốt dân tộc thì họ vẫn luôn gìn giữ. Trong giao tiếp hằng ngày, đó là khi nói chuyện, trao đổi bàn bạc các vấn đề với người thuộc các dân tộc khác, họ đều dùng tiếng phổ thông (tiếng Kinh) nhưng khi trở về với bản Mường, nói chuyện trao đổi với người cùng dân tộc, họ lại dùng chính thứ tiếng riêng biệt của dân tộc mình để cùng trò truyện, tâm sự. Trong các bài hát dân ca cũng vậy, họ đều được hát bằng tiếng Mường, nhưng để cho nhiều đối tượng, nhiều dân tộc khác cùng hiểu, họ đã dịch nghĩa sang tiếng Kinh, đồng thời hát cả lời tiếng Mường và lời tiếng Kinh trong quá trình biểu diễn.

Xã hội phát triển, đời sống của con người ngày càng nâng cao, các dân tộc anh em cùng sống đan xen, cùng trao đổi, học hỏi lẫn nhau để cùng phát triển, người Mường cũng vậy, họ sống đan xen cùng với các dân tộc khác nhưng không phải vì thế mà họ bị mất đi bản sắc dân tộc riêng. Họ vẫn ngày đêm trao truyền, giữ gìn những tiếng ru, lời thường, rang, những bài cúng mo, những điệu múa mỡi…, các thế hệ người già Mường vẫn đang truyền lửa lại cho thế hệ tiếp nối những giá trị văn hóa dân gian từ ngàn xưa còn lưu giữ. Ở Phú Thọ, được sự nhất trí của chính quyền các cấp, sự giúp đỡ của các phòng văn hóa, một số vùng Mường như: Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập đã thành lập các câu lạc bộ dân ca thu hút được nhiều sự quan tâm của các thế hệ người dân cùng tham gia sinh hoạt nhằm trao đổi, học hỏi lẫn nhau về văn hóa, văn nghệ, đồng thời tạo điều kiện để các câu lạc bộ phát triển, phục vụ cho nhu cầu văn hóa văn nghệ của người dân ở địa phương. Các ban văn hóa xã đã phối kết hợp với các trường học trên địa bàn xã, tạo điều kiện để các thành viên trong câu lạc bộ dân ca được gặp gỡ, trao đổi và truyền dạy dân ca Mường cho các em học sinh giúp các em yêu dân ca của dân tộc hơn.

Nhân dịp giỗ Tổ Hùng Vương hằng năm, các huyện, thị trong tỉnh tổ chức các đoàn, đưa đến hội trại văn hóa những đội nghi lễ, những đoàn dân ca đặc sắc và điển hình của địa phương. Những tiết mục biểu diễn độc đáo của người Mường cũng có dịp được quảng bá rộng rãi tới toàn thể đồng bào. Những sản vật của người Mường không chỉ tạo nên những giá trị văn hóa, nghệ thuật dân gian độc đáo của riêng mình, mà còn góp phần làm phong phú kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam, những giá trị sáng tạo ấy sẽ được truyền lại cho các thế hệ Mường sau nhằm phát huy sức sống nghệ thuật của dân tộc trong sự đổi thay muôn mặt của cuộc sống.

Kết luận

Là một dân tộc với nhiều thể loại dân ca phong phú, đa dạng, người Mường ở Phú Thọ vẫn luôn phát huy truyền thống, giữ gìn những bản sắc mà cha ông họ đã dày công tạo dựng, vun đắp nên. Trước sự biến đổi mạnh mẽ của thời đại, sự giao thoa của nhiều loại hình văn hóa, các thế hệ người Mường vẫn luôn giữ vững niềm tin và luôn ý thức được rằng việc bảo tồn phát huy những giá trị cổ truyền của dân tộc là cần thiết, đúng như nhà nghiên cứu Trần Văn Giàu từng nhắc nhở “chúng ta đến hiện đại từ truyền thống”. Đồng thời, không ngừng trau dồi học hỏi thêm những điều mới mẻ, phù hợp, bổ sung cho truyền thống của dân tộc, trong bối cảnh hội nhập, giao lưu văn trên thế giới hiện nay, đúng như tinh thần của Đại hội Đảng lần thứ VIII đã khẳng định Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiên, đậm đà bản sắc dân tộc, trên cơ sở kế thừa và chắt lọc nhưng tinh hoa văn hóa của nhân lọai để làm giàu thêm cho kho tàng văn hóa Việt Nam.       

______________

1. Dương Huy Thiện, Văn hóa dân gian Mường PhúThọ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015, tr.20.

2. Nhóm tác giả Dương Huy Thiện, Đoàn Hải Hưng, Trần Quang Minh, Văn hóa dân gian một số dân tộc thiểu số huyện Yên lập, tỉnh Phú Thọ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2010, tr.17.

3, 4, 5. Nhiều tác giả, Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam, Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam, 2009, tr. 330, 78, 79.

6,7. Phạm Phúc Minh, Tìm hiểu dân ca Việt Nam, Nxb Âm nhạc, Hà Nội, 1994, tr.14, 13.

Tác giả: Tạ Thị Thu Hiền

Nguồn: Tạp chí VHNT số 429, tháng 3-2020

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *