Hoa đào – một biểu tượng xuyên văn hóa


 

Hoa, tự ngàn xưa, luôn là biểu tượng của cái đẹp, của sự sống căng đầy nhựa khí. Mỗi nền văn hóa, mỗi dân tộc, mỗi con người đều ký thác ở mỗi loài hoa những ẩn ngữ văn hóa khác nhau. Vì lẽ đó, nó mang vác trong mình mỗi thứ ngôn ngữ không giống nhau. Cúc tượng trưng cho nếp sống khiêm tốn, điềm đạm; mẫu đơn là vua hoa, hoa phú quý, loài hoa thiên hương quốc sắc; hoa lan được mệnh danh là vương giả hương, thanh nhã, không phàm tục; thủy tiên với vẻ đẹp trang trọng, tượng trưng cho sự thanh khiết; trà my, hải đường mỗi loài một vẻ, kín đáo mà ngạt ngào hương, nhẹ nhàng mà tròn đầy, phúc hậu; hoa hồng là nữ hoàng các loài hoa, cả hương lẫn sắc ngọt nồng vị tình yêu,…

Các loài hoa, mỗi khi tết đến xuân về, cứ đua nhau khoe sắc làm cho người yêu hoa, thưởng thức hoa phải nức lòng, bối rối. Và cũng đã có không ít tao nhân mặc khách “nặng lòng xót liễu vì hoa”. Hoa xuất hiện trong mùa xuân tô điểm cho đất trời, cho cuộc đời và cho nỗi niềm hân hoan lòng người trọn kiếp nhân sinh. Nhưng có lẽ, trong thế giới hương hoa rực rỡ ấy, hoa mai, hoa đào mới thực sự là sứ giả của mùa xuân, là nhân chứng thời gian của đất trời giao chuyển, niềm tin và ước vọng của con người khi mỗi độ xuân về.

Cây đào trong tự nhiên, với các tính chất sinh học của nó, là cây gỗ nhỡ, thuộc họ hoa hồng, cao khoảng 3-4m, lá đơn mọc so le, phiến hẹp và dài, cuống ngắn, mép có răng cưa nhỏ, hoa màu hồng nhạt, mọc riêng lẻ, có 5 cánh, cuống hoa ngắn, nhị hoa có khoảng 35-40 cái, quả hạch có rãnh dọc, ở mặt ngoài có phủ nhung tơ. Nhân hạt, hoa, lá đào đều có tác dụng y học chữa một số bệnh cho người. Hoa đào tính bình, vị đắng, có tác dụng thông tiểu tiện, hoạt huyết và nhuận tràng. Hoa khô chỉ dùng được trong phạm vi một năm, nếu để lâu ngày dễ mất tác dụng chữa bệnh.

Đào có nhiều loại khác nhau. Đào bích là thứ đào phổ biến nhất, cành tròn, như cái ô đặt ngược, hoa thắm đỏ, rải đều trên khắp các cành chi, cành tăm, hoa chen nụ, nụ đỡ hoa, như một tình yêu nồng nàn, chan chứa. Có thể cắm nó trong phòng khách sang trọng, phòng lễ tân, trên bàn nhỏ tiếp khách, cũng có thể cắm trên bàn thờ làm hương nến thêm lung linh huyền ảo. Đào phai cũng là hoa kép nhiều tầng cánh như đào bích, nhưng hoa nhạt hơn. Ở ven đô Hà Nội, phía tây bắc Hồ Tây là làng Nhật Tân, nổi tiếng về nghề trồng bích đào và đào phai. Đào ta là loài đào ăn quả, hoa phớt hồng như đào phai nhưng hoa đơn năm cánh, cành mang vẻ tự nhiên, nhiều lộc non về sớm trước xuân báo hiệu nhiều tài lộc tới. ở Sa Pa, đào ta là một trong những loài hoa được nhiều du khách lựa chọn. Bích đàođào phai có nguồn gốc từ Trung Quốc. Tương truyền, người Trung Hoa biết trồng đào ít nhất từ bốn ngàn năm. Đào từ Trung Quốc truyền vào Trung Á, vào Ba Tư. Và mãi đến TK XVII, cây đào mới được du nhập vào châu Mỹ.

Từ những đặc tính tự nhiên đó, hoa đào đã trở thành một biểu tượng xuyên văn hóa. Giá trị biểu trưng của hoa đào đã vượt biên giới lãnh thổ của một quốc gia, chuyển tải nhiều giá trị văn hóa khu vực và châu lục- những ẩn ngữ văn hóa Á Đông, tiêu biểu là ba nền văn hóa Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam. Điều đáng phải nói thêm là, tuy cùng nền tảng văn hóa chung của các nước Đông á nhưng người Nhật Bản, Việt Nam và Trung Quốc có những rung cảm khác nhau về hoa đào và gán cho biểu tượng hoa đào những ẩn ngữ cũng không giống nhau.

Ở Nhật Bản, Lễ hội hoa anh đào (Hanami) là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống lâu đời. Hana là hoa – mi là xem, hanami nghĩa là xem hoa; cũng được hiểu là ngày hội xem hoa đào. Đặc tính của người Nhật là thường tìm thấy sự đồng cảm và cảm hứng trong cái đẹp của thiên nhiên. Họ tìm thấy nơi hoa đào một tính cách rất phù hợp với tâm hồn và tinh thần của mỗi người. Nguồn gốc của lễ hội Hanami là dịp vui chơi của giới bình dân. Chính nông dân là người phát hiện cái đẹp của hoa anh đào đầu tiên. Mỗi năm trước khi vào vụ mùa, mọi người thường rủ nhau lên núi xem hoa, uống rượu, vui chơi. Người Nhật cho rằng hoa anh đào tượng trưng cho mùa xuân, rất giống với tính cách người Nhật. Vì đặc điểm của hoa anh đào là rơi xuống vào mùa xuân mới đạt tới độ tươi đẹp nhất, nên được ví như tinh thần võ sĩ đạo, biết chết một cách cao đẹp. Mỗi người Nhật ai cũng đều thuộc lòng câu châm ngôn: Là hoa thì hãy là hoa đào; là người thì hãy là Samurai. Hoa anh đào còn là một nguồn cảm hứng bất tận đối với các nhà thơ Nhật Bản. Với những cánh hoa đào mỏng mảnh được hóa thân trong những vần thơ Hai cư, bỗng chốc nó đã làm rung động biết bao tâm hồn người thưởng thức: Một cành đào đơn sơ/ Một buổi sáng đẹp trời/ Trang điểm một hồ sâu (Buson). Một cành hoa đơn sơ, một buổi sáng đẹp trời, một mặt nước trong vắt, là ba yếu tố hòa quyện cô đọng của cái đẹp thuần khiết. Hay chúng ta có thể tìm thấy được cái đẹp của niềm an lạc qua những vần thơ: Hoa đào đang rơi/ Tâm của người đàn ông/ Trở nên yên tĩnh lại (Koyuni). Khi nhìn hoa đào rơi, đó là một biểu tượng sống động về sự vô thường trong cuộc sống thật bấp bênh và ngắn ngủi, để từ đó biết quý trọng những giây phút của hiện tại. Nhà thơ thiền Basho, mà người Nhật gọi là Vị hành giả của cát bụi và ánh sáng, đã cúi đầu đảnh lễ hoa đào và còn tôn xưng hoa đào là Phật. Trước cành hoa đào/ Rộ đời hương sắc / Nam mô hoa đào (Basho). Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật gọi hoa anh đào là quốc hoa, tức loài hoa đại diện cho dân tộc của họ. Hơn nữa, nước Nhật còn được mệnh danh là xứ sở hoa anh đào vì nó được trồng khắp nơi trên dải đất Phù Tang, nhất là những vùng đồi núi hẻo lánh, nơi những ngôi chùa cổ kính tọa lạc. Mỗi độ xuân về, hoa nhuốm hồng cả một bầu trời, tạo cho chốn thiền môn một vẻ thanh tịnh, nhuốm màu đạo vị.

Ở Trung Quốc, nơi được xem là quê hương của hoa đào, chúng ta lại càng ngộ rõ hơn nữa những ẩn ngữ văn hóa gắn liền với biểu tượng hoa đào. Người Trung Hoa xưa ví nhân tài như cây đào. Địch Nhân Kiệt làm tể tướng đời Đường, thu dụng được nhiều nhân tài nên có người bảo “cây đào, cây lý trong nước ở cả cửa tướng công”. Huyền thoại Trung Hoa có nói đến vườn đào của Tây Vương Mẫu ở thiên giới, cứ 3000 năm ra quả một lần. Nơi đây, hoa nở quanh năm, trái đủ bốn mùa. Ai được ăn trái đào tiên này sẽ trường sinh bất tử. Ngoài việc gắn với đề tài lịch sử, như lời thề vườn đào trong Tam quốc chí, vườn đào còn được xem là khu vườn địa đàng, vườn của sự trường sinh, sự tới đích của hành trình thụ pháp. Người Trung Hoa còn dùng gỗ cây đào khắc thành những hình nhân treo trên cửa ra vào để tránh tà ma hoặc chế tạo ra những cây bút trong thuật bói toán, những cây bút bằng gỗ đào này khi chuyển động sẽ viết nên những tiên đoán về tương lai. Hơn nữa, ta cũng thường thấy trong những bức tranh hay tượng tam đa (hình ba ông Phúc – Lộc – Thọ), ông Thọ bao giờ trên tay cũng cầm trái đào; còn trong tranh Tết thì hình thằng bé mũm mĩm, giang tay ôm trái đào tiên khổng lồ vào lòng, là có ý chúc trường thọ. Kinh thi – một tập thơ dân gian cổ nhất do đức Khổng Tử san định khoảng giữa TK VI trước Công nguyên – ở mục Chu Nam, thơ Đào Yêu cũng đã viết rằng: “Đào chi yêu yêu / Chước chước kỳ hoa / Chi tử vu qui / Nghi kỳ thất gia” (Tạm dịch: Nõn nà đào tơ / Xinh xắn nở hoa / Nàng ta lấy chồng / Cửa nhà ấm êm). Ở đây, cây đào đẹp cho nụ hoa tươi thắm nên đã được ví với người thiếu nữ trẻ trung đến tuổi xuân thì trước khi kết hôn.

Trong văn hóa Việt Nam, biểu tượng hoa đào, cũng như cây đào, quả đào không bao hàm hết những ý nghĩa biểu trưng như Trung Quốc hay Nhật Bản nhưng nó trở nên gần gũi, giàu ý nghĩa thông qua sự giao lưu, tiếp biến với văn hóa của các quốc gia này. Cũng giống như thú thưởng ngoạn hoa mai, chơi hoa đào cũng là một thú chơi thanh tao, lịch lãm của người Việt, vừa đơn giản dễ dàng, vừa cầu kỳ chọn lựa. Đơn giản vì lên chợ hoa chọn lấy một cành trong triệu cành là có hoa đào chơi Tết. Cầu kỳ là người chơi đào thế cần mẫn tìm hoa, chọn kiểu, thậm chí mất hàng tháng trời để có một cành đào thế, vừa đẹp về hoa về nụ, vừa có thế về dáng về gốc, vừa có ý nghĩa về cành về lộc… Tục lệ chơi hoa đào trong ngày Tết mang phong vị rất riêng của người xứ Bắc. Người ta trưng, chơi hoa đào không chỉ vì những cánh hoa đào có màu hồng mang sắc hỷ tín, mà còn do quan niệm tâm linh rằng hoa đào khi đem về trưng trong nhà có thể trừ được ma quỉ quấy phá. Niềm tin ấy bắt nguồn từ sự tích lưu truyền trong dân gian rằng: “Thuở xưa, Ngọc hoàng Thượng đế sai hai vị Trà thần và Lũy thần xuống bảo vệ người trần, không cho quỉ dữ và yêu tinh quấy phá. Cuối năm, hai vị thần phải về trời tâu những việc đã làm được nơi dân gian, vào dịp này người ta trưng một cành đào trong nhà để bọn quỉ tưởng những vị thần này vẫn đang hiện diện nên sợ không dám đến”.

Có thể nói rằng, nếu hoa mai là một biểu tượng của mùa xuân và văn hóa Tết của người miền Trung và miền Nam thì hoa đào lại là biểu tượng của trời xuân xứ Bắc. Maiđào đều là hai loài hoa tinh khiết, quý hiếm trong muôn loài, tượng trưng cho sức sống kỳ diệu của thế giới loài hoa giữa trời xuân, lại có hương thơm nhẹ nhàng thanh thoát, hợp với không khí đầm ấm hạnh phúc của người đang rạo rực vui xuân. Đào đỏ, mai vàng. Màu đỏ thắm tươi biểu tượng cho sự vui mừng; màu vàng tượng trưng cho sự vinh hiển cao sang. Hòa theo dòng chảy của thời gian và cuộc sống, sự kết hợp giữa thiên nhiên, con người và vạn vật, chen lẫn hương sắc của đào đỏ mai vàng, mỗi cành đào ngày xuân đã làm rực sáng lên một mảng màu văn hóa đặc trưng trong tâm hồn Việt…

Nguồn : Tạp chí VHNT số 295, tháng 1-2009

Tác giả : Trần Văn Sáng

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *