Tượng thờ trong chùa Việt ở Bắc Bộ là kho tàng di sản điêu khắc cổ quý báu, không những phong phú về loại thể mà còn đa dạng, đặc sắc trong phong cách tạo hình, mang dấu ấn riêng của mỗi thời kỳ lịch sử mỹ thuật dân tộc. Điều quý giá nhất có lẽ là mỗi một bức tượng thờ đều thấm đẫm tâm hồn Việt. Một trong những yếu tố góp phần làm giá trị nghệ thuật của pho tượng là hoa văn trang trí và mật ý nhằm truyền tải những khát vọng ngàn đời của người Việt.
Bộ tượng Tam thế phật có chất liệu gỗ phủ sơn, thếp vàng, gồm ba vị phật: Quá khứ thế (Trang nghiêm thiên kiếp phật), Hiện tại thế (Hiền kiếp thiên phật) và Vị lai thế (Tinh tiến kiếp thiên phật) mang ngụ ý về hằng hà sa số phật, vô lượng phật ở cả ba thời quá khứ, hiện tại, tương lai. Ba pho tượng có dáng ngồi theo tư thế nhập thiền trên tòa sen, bên dưới là bệ tượng hình khối vuông, thắt ở giữa với kết cấu ước lệ ba tầng, được trang trí chạm khắc bằng nhiều đồ án hoa văn đặc sắc với những bố cục chặt chẽ, hình thức thể hiện dung dị, khoáng đạt, như bao chứa nhiều ý nghĩa cần được giải mã.
Họa tiết hoa sen ở bệ sen với những cánh sen nở căng, nhọn đầu được tạo khối nổi, màu son thắm, đường viền mép cánh được thếp vàng. Giữa cánh là cụm hoa văn viền bằng hai cung tròn khép lại, uốn kết mũi hài. Bên trong là hai lớp vân xoắn lại bởi ba cung tròn nhỏ có cấu trúc như mây nước. Phía trên hai nhánh có kết những hạt tròn. Nhánh giữa là vân xoắn hình đao lửa trên cụm mặt trời ở tán bối quang (hào quang sau lưng). Đồ án trang trí này gợi sự liên tưởng về niết bàn và nước, lửa – nguồn sinh lực mà cư dân nông nghiệp mong cầu ở tầng trên.
Những hoa văn, cách thức trang trí ở bệ tượng, đài sen này tuy có nét tương đồng với hoa văn ở bệ sen trên tượng cùng loại ở chùa Thày, chùa Ninh Hiệp, Côn Sơn và Đức La, nhưng vẫn mang nét riêng và độc đáo so với thời trước và thời sau. Điều đó góp phần tạo nên sự đặc sắc của phong cách nghệ thuật tượng thờ thời kỳ này, đúng như một nhận định: “Đến hoa sen bệ Quan âm thiên thủ thiên nhãn và bệ Tam thế phật ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) thì thẩm mỹ thời Lê – Trịnh dường như đã được khẳng định” (1).
Hoa văn hình hoa cúc được bố cục cân đối trong ô chữ nhật ở căn giữa tầng trên cùng của bệ tượng. Tạo hình của bông hoa theo lối nhìn nghiêng dạng giống hoa cúc đại đóa rất sinh động, năm cánh to xòe ra như những tia ánh sáng, bao viền quanh một u tròn ở giữa bông bằng ba cánh nhỏ đặt khéo léo trên đài cuống hoa, hai bên hoa là những lá lớn, lá nhỏ vươn lên được khắc bằng các đường gân lá, tạo thành một cụm hoa sinh động. Môtip hoa cúc này gần giống với hoa trên bia đá ở chùa Ngô Xá (Nam Định). Chầu vào bông hoa cúc từ hai bên là cặp rồng được chạm nổi, thân uốn mềm mại, ẩn hiện trong cụm vân mây, râu và bờm bay ngược về phía sau. Có ý kiến cho rằng, hoa cúc mang tính dương, được ví như nguồn sáng hay mặt trời, kết hợp với đôi rồng chầu tạo thành ba hào từ dương, lập thành quẻ càn (trời), mô tả về tầng trên, hay cõi thiên giới. Với suy luận này, hoa cúc tượng trưng cho ánh sáng, và hơn nữa là sự liên tưởng về ánh sáng trí tuệ của Đức Phật. “Hoa cúc như một biểu tượng của nguồn sáng, nhiều khi được nghĩ tới là mặt trời. Những hoa văn dấu hỏi được biểu tượng cho tia nắng, hoặc chớp sấm…Trên những phù điêu đó, người ta như nhìn thấy tín ngưỡng thờ mặt trời từ thời kỳ Đông Sơn vẫn tồn tại dai dẳng. Đồng thời ý thức cầu mưa của cư dân nông nghiệp lúa nước vẫn khá cụ thể”(2). Như vậy, khi xem xét môtip hoa cúc ở đây và đối chiếu với hoa cúc trên đồ gốm Hoàng thành Thăng Long (di tích thời Lý, thời Trần), hay trên gạch nung Yên Tử, Thiên Trường (di tích thời Trần), trên trán bia Văn Miếu (di tích thời Lê trung hưng)…, chúng ta thấy, tùy theo vị trí, hoa cúc mang những lớp ý nghĩa khác nhau. Khi được trang trí riêng lẻ thì hoa cúc gắn với sự thanh cao của kẻ sĩ, trong bộ tranh Tứ quý thì cúc đại diện cho mùa thu. Đến đồ án có hai rồng chầu trên bệ tượng tam thế này thì hoa cúc lại gắn với ý nghĩa vũ trụ, bởi vị trí của nó thay thế nguồn phát sáng. Song đây cũng chỉ là những giả thiết đặt ra trong quá trình nghiên cứu.
Hoa văn hình lá đề ở chính giữa tầng thứ hai của bệ tượng, có đặc điểm tạo hình nổi bật là gần với lá đề trên bệ tượng Tam thế ở chùa Vĩnh Nghiêm, Bắc Giang: đỉnh nhọn của lá bị khuất bởi tầng trên và xung quanh có viền lửa bốc đầu. Trong lòng lá đề có hình rồng, một môtip thường gặp trong mỹ thuật truyền thống Việt từ thời Lý. Về ý nghĩa của lá bồ đề theo Phật giáo, Đức Thích ca là người giác ngộ dưới gốc cây bồ đề, vì vậy, trong mỹ thuật Phật giáo, thời kỳ chưa tạo tượng thì cây bồ đề được hiểu là hình ảnh Đức Phật, điêu khắc Phật giáo có hình ảnh cây hoặc lá đề được coi là biểu tượng của sự giác ngộ.
Hoa văn hình kỷ hà nằm ở tầng thứ ba, là những gạch chéo có nét tương đồng với hoa văn hình học trang trí trên gốm từ thời tiền sử, sơ sử đến gốm Hoa Lộc trên đồ đồng Đông Sơn, về sau lại thấy xuất hiện trên đòn kèo dưới đầu đao ở chùa Tây Phương, Hà Nội, cuối TK XVIII. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng loại hoa văn này có liên quan đến tục cầu mưa, cầu mùa.
Riêng về hoa văn hình mây lửa và mây nước chạm nổi ở tầng một, thuộc mặt bên phải bệ tượng pho Quá khứ thế, mỗi đồ án có ba hình khánh, xung quanh điểm hình mây tròn nhỏ, mũi mác tỏa sang ngang, dạng mây nước. Ô giữa có chạm u tròn nổi, xòe bốn cánh hình tim, trong lòng có hai xoáy kết mũi hài, sáu cụm hình mây mũi mác bốc lên trên, dạng mây đao lửa. Đây là dạng họa tiết quen thuộc trong trang trí truyền thống Việt, có ý nghĩa liên quan mật thiết đến tục cầu mưa của cư dân nông nghiệp.
Hoa văn hình sen tạng ở tầng một, thuộc mặt trước bệ pho tượng Hiện tại thế, có nhiều cánh với góc nhìn từ trên xuống, các cụm mây vân xoắn tỏa sang hai bên như đón hướng nhìn vào chính bông sen. Họa tiết này có nét tương đồng với hoa sen tạng ở lưng tượng Quan Thế Âm trong bộ Di đà tam tôn ở chùa Thày, Hà Nội. Từ tạo hình đó có thể thấy rằng, các đao lửa đều ngược về phía sau, gợi liên tưởng về sự chuyển động trong không gian mênh mang của vũ trụ.
Họa tiết hình con người đỡ bốn phía bệ tượng, giữa có một đồ án trang trí hình lá sen, tượng trưng cho chúng sinh tầng dưới (cõi dục giới và sắc giới) đỡ lấy tầng trên có bồ tát và phật (cõi vô sắc giới). Sự phân chia ước lệ các tầng tạo sự liên thông giữa các cõi theo tinh thần triết học Phật giáo kết hợp tư duy dân gian của người Việt.
Nhìn chung, hoa văn trang trí bộ tượng Tam thế tam thiên Phật mang ý nghĩa về các lực lượng tự nhiên, phản ánh tục cầu mưa, cầu mùa, là khát vọng hằng xuyên của người Việt vùng châu thổ Bắc Bộ. Yếu tố dung dị, phóng khoáng của tâm thức bản địa đã Việt hóa những khuôn mẫu tôn giáo, tạo nên sự dung hội văn hóa trong ngôi chùa của người Việt.
Như vậy, qua nghiên cứu những hoa văn ở bệ tượng Tam thế phật ở chùa Bút Tháp, chúng ta thấy hoa văn là ngôn ngữ tạo hình, giữ vai trò phản ánh tâm thức dân tộc trong nghệ thuật tạo hình của người Việt, đồng thời khẳng định nghệ thuật thời Lê – Trịnh là đỉnh cao của nghệ thuật dân gian Việt Nam. Sự hoàn mỹ của các họa tiết thực vật mang tính tả thực cao, làm ta khó xác định tác phẩm nào thuộc về dân gian hay cung đình. Ở mỗi tác phẩm, cái nọ nâng đỡ cái kia, giăng mắc như mối tơ duyên tiền kiếp. Hồn thiêng của dân tộc tạo cho tác phẩm vẻ nhuận lành với mỹ cảm của người Việt. Còn kiến thức bác học lại tạo khuôn vàng thước ngọc cho tác phẩm. Những đường nét, dù trau chuốt hay giản đơn, với những chi tiết thực vật được miêu tả rất có hồn hàm chứa nhiều ý nghĩa vượt ra ngoài sự vật, phản ánh ước vọng muôn đời của người Việt về một cuộc sống an lành.
_______________
1. Triệu Thế Hùng, Hình tượng thực vật trong nghệ thuật tạo hình của người Việt, Nxb Thời đại, Hà Nội, 2013, tr.135.
2. Trần Lâm Biền, Một con đường tiếp cận lịch sử, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2013, tr.165.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 359, tháng 5-2014
Tác giả : Thiện Mỹ
Bài viết cùng chủ đề:
Năng lực phản biện khoa học của giảng viên trong nhà trường quân đội
Thế giới quan và phương pháp luận của giảng viên trẻ trong các trường quân đội
Sự chuyển đổi sinh kế của người dân nà lầu, lạng sơn