Trong lịch sử hội họa thế giới, tranh vẽ về đề tài lịch sử còn được gọi là tranh lịch sử, từng xếp ở vị trí cao nhất trong các thể loại. Song, kể từ TK XIX, thể loại tranh này ngày càng xuất hiện ít hơn và thậm chí, trong ngôi đền của nghệ thuật hiện đại, tranh lịch sử đã bị loại trừ. Paul Barlow, khi nghiên cứu về cái chết của tranh lịch sử ở TK XIX (1) đã nhận định rằng, nghệ thuật hiện đại được xây dựng trên sự từ chối tranh lịch sử.
Ở Việt Nam, có những giai đoạn, đề tài lịch sử thu hút một số nghệ sĩ sáng tác và đạt được những thành công nhất định trong việc phản ánh và ghi lại những dấu ấn của lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, kể từ năm 1986, trong bối cảnh sáng tác của các nghệ sĩ trẻ hướng đến những hình thức nghệ thuật đương đại như video (video art), sắp đặt (installation art), trình diễn (performance art),… và đề tài chủ yếu tập trung đến các vấn đề xã hội đương đại, số lượng những sáng tác hội họa về đề tài lịch sử đã bị suy giảm đáng kể. Xét ở góc độ nội dung tư tưởng, có thể khẳng định rằng, lịch sử vẫn luôn là một đề tài lớn và quan trọng trong sáng tác nghệ thuật ở mọi thời đại.
Sáng tác hội họa về đề tài lịch sử và những khái niệm liên quan
Sáng tác hội họa về đề tài lịch sử được xác định bởi đề tài chứ không phải phong cách hay chất liệu tạo hình. Về mặt thuật ngữ, trong tiếng Anh, thuật ngữ history painting được ghép lại bởi hai từ là history và painting, có nghĩa là tranh lịch sử. Xét về nguồn gốc, history (lịch sử) trong tiếng Anh bắt nguồn từ chữ “iotopíỏ” trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “yêu cầu thông tin”, “kiến thức thu được qua điều tra”, là thuật ngữ chung liên quan đến các sự kiện trong quá khứ cũng như sự phát hiện, thu thập, tổ chức và trình bày thông tin về các sự kiện. Khái niệm lịch sử hàm nghĩa chỉ những biến cố, sự kiện đã qua của nhân loại, cố định trong một không gian và thời gian, là những sự kiện tuyệt đối và khách quan. Do đấy, có người cho rằng, tranh lịch sử là thể loại tranh ghi chép lại lịch sử, thể hiện trung thực về nhân vật, sự kiện, cảnh tượng của lịch sử. Tuy nhiên, hội họa lại không phải là sử học mà có những yêu cầu riêng liên quan chặt chẽ đến hiệu quả thị giác như bóng tối và ánh sáng, xa và gần, khoảng cách và sự ngưng nghỉ, chất và màu… Sự trung thực với các sự kiện, chi tiết lịch sử có thể buộc họa sĩ phải hy sinh những yếu tố tạo hình, và như vậy, (có thể) tranh sẽ trung thực với lịch sử nhưng lại thiếu mất đi một trong những điều cốt yếu của sáng tác nghệ thuật là sự sáng tạo và cảm xúc thẩm mỹ. Do đấy, nhà phê bình nghệ thuật Pháp Andre Felibien có lý khi viết: “Nếu tôi muốn biết lịch sử, không phải tôi sẽ tham khảo một họa sĩ, anh ta chỉ là một sử gia tình cờ; nhưng tôi phải đọc sách sử đề cập vấn đề có chủ định, mà nhiệm vụ chủ yếu không chỉ là kể lại sự kiện mà còn kể lại một cách trung thực” (2). Nói cho đúng, chép sử không phải là mục đích chính của hội họa. Song, thực tế nghiên cứu và sáng tác cho thấy, nhiều khi để chỉ tác phẩm hội họa về đề tài lịch sử người ta vẫn dùng thuật ngữ tranh lịch sử (3) và trong một số trường hợp, tác phẩm hội họa được xem như một cứ liệu để tham chiếu, tra cứu về trang phục, nhân vật, sự kiện trong lịch sử qua những nghiên cứu tìm tòi của nghệ sĩ về nhân vật, cảnh tượng và sự kiện lịch sử. Ngoài ra, liên quan đến lịch sử cũng cần kể đến những sáng tác hội họa không thuộc đề tài lịch sử mà là những tác phẩm hội họa hiện thực vẽ về con người và xã hội đương thời nhưng do sự phản ánh chân thực mà có yếu tố sử và được xem như tư liệu sử bằng hình ảnh.
Thời Phục hưng, Leon Battista Alberti xếp tranh lịch sử ở vị trí danh giá nhất. Theo ông, công việc thực hiện một bức tranh lịch sử rất khó khăn bởi nó đòi hỏi người vẽ phải nghiên cứu, có kiến thức sâu rộng về đề tài và những kỹ năng nghề nghiệp để xây dựng bố cục, nhân vật, kết cấu, sự kiện… Trong TK XVII, Andre Felibien hệ thống, sắp xếp thứ hạng các thể loại tranh theo đề tài như sau: thứ nhất, tranh lịch sử; thứ hai, tranh chân dung; thứ ba, tranh sinh hoạt; thứ tư, tranh phong cảnh và thứ năm, tranh tĩnh vật… Trong nhiều thế kỷ ở phương Tây, sáng tác hội họa về đề tài lịch sử từng là thể loại uy tín, đầy tham vọng nghệ thuật, chiếm vị trí trang trọng trong các salon và học viện nghệ thuật. Thậm chí, Viện Hàn lâm Pháp còn đưa ra những quy định nghiêm ngặt đối với thể loại tranh vẽ đề tài lịch sử, đến mức người họa sĩ dường như không còn chút tự do sáng tạo nào. Sự suy giảm của tranh lịch sử vào TK XIX và XX khiến người ta nghĩ đến sự kết thúc của thể loại tranh này. Các tác giả Jeff Wall, Robert Smithson, Gerhard Richter, Louise Bourgeois, trong công trình History Painting Reassessed (Đánh giá lại tranh lịch sử) (4), khi xem xét những khía cạnh khác nhau của nghệ thuật hiện đại và đương đại đã đặt câu hỏi về ý thức lịch sử trong những mối quan tâm sáng tác về chủ đề chính trị, giới tính, chủ nghĩa thực dân và sinh thái…
Lịch sử với hội họa Việt Nam hiện đại
Sáng tác hội họa Việt Nam về đề tài lịch sử
Nếu như ở phương Tây có những họa sĩ chuyên vẽ về đề tài lịch sử thì ở Việt Nam, một họa sĩ lại cùng lúc vẽ nhiều thể loại như chân dung, phong cảnh, sinh hoạt hay tĩnh vật và thử sức ở các chất liệu khác nhau. Do tính chất không chuyên như vậy nên chỉ những họa sĩ có kỹ thuật chuyên môn tốt, đầu tư vào việc tìm hiểu nghiên cứu sự kiện hay nhân vật lịch sử thì mới giải quyết tốt đề tài và có giá trị về mặt nghệ thuật tạo hình.
Một trong những tác phẩm hội họa về đề tài lịch sử của hội họa Việt Nam những năm đầu TK XX là bức tranh sơn dầu Phạm Ngũ Lão (1923) của Thang Trần Phềnh. Dựa vào tích truyện của Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút, đại ý như sau: Hưng Đại Vương cùng tùy tùng đi ngang qua Đường Hào, thấy Phạm Ngũ Lão ngồi bên vệ đường đang đan sọt. Quân lính kéo đến, dẹp lối đi. Phạm Ngũ Lão vẫn ngồi thản nhiên như không để ý đến ai cả. Quân lính cầm giáo đâm vào đùi chảy máu mà ông vẫn không nhúc nhích. Thấy vậy Vương dừng lại hỏi, bấy giờ Phạm Ngũ Lão mới trả lời rằng đang mải nghĩ một câu trong binh thư nên không để ý. Biết gặp người có tài, Trần Hưng Đạo cho ông ngồi cùng kiệu đưa về kinh sư. Từ đó Phạm Ngũ Lão trở thành môn khách của Trần Hưng Đạo… Tranh của Thang Trần Phềnh diễn tả lại câu chuyện nói trên một cách chi tiết nên nếu người xem thuộc tích truyện thì sẽ nhận ngay ra nhân vật và sự kiện trong tranh. Nhìn chung, tranh vẽ theo lối tường thuật. Trên một nền phong cảnh thôn quê với đồng ruộng, cây cỏ được mô tả chi tiết khá công phu, tác giả thể hiện đoàn tùy tùng hộ tống Hưng Đại Vương kéo dài từ cận cảnh, nơi nhân vật Phạm Ngũ Lão đang ngồi đan sọt giữa đường cho đến tận khóm cây phía xa nơi cuối con đường. Trọng tâm tranh là sự kiện chính của tích truyện: ba người lính cầm giáo dẹp lối đi vây quanh và thậm chí một người đang dùng giáo đâm hẳn vào đùi Phạm Ngũ Lão. Song, đối lập với sự nhộn nhịp của đoàn người và sự hăng hái dẹp đường của những người lính là dáng ngồi bình thản của Phạm Ngũ Lão, như đang nghĩ ngợi, suy tư, không màng đến xung quanh, tựa như những gì đã được mô tả trong truyện. Ở đây, có thể thấy rằng, họa sĩ dường như nỗ lực vẽ lại câu chuyện, hay nói cách khác là kể lại tích truyện bằng hình vẽ.
Khác với cách vẽ theo lối diễn tả, bức tranh sơn mài Xô viết Nghệ Tĩnh (1957) đã thể hiện được tinh thần đấu tranh chống đế quốc Pháp của lực lượng công nhân và nông dân trong giai đoạn 1930 – 1931. Về mặt lịch sử, từ tháng 9-1930, các cuộc biểu tình vũ trang tự vệ kết hợp với yêu sách chính trị của nông dân liên tiếp nổ ra tại các huyện Nam Đàn, Thanh Chương, Can Lộc, Hưng Nguyên… Chính quyền Xô viết được hình thành tại nhiều xã, một mặt thi hành các chính sách mới, mặt khác phá bỏ hệ thống chính quyền cũ, trưng thu đất, thóc gạo, tiền bạc của địa chủ và ra yêu sách với các chủ xưởng, chủ tàu trong vùng. Dựa trên những dữ kiện lịch sử quan trọng, bức tranh sơn mài của tập thể tác giả thể hiện được tinh thần, khí thế sục sôi của phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh. Tranh có khổ lớn, 160cm x 320cm, bao gồm bốn tấm ghép lại. Sử dụng lợi thế về hiệu quả vàng, son của sơn mài, các tác giả tập trung ánh sáng vàng rực rỡ bao quanh nhân vật đứng hiên ngang trên bức tường, tay cầm vũ khí tự vệ chỉ về phía trước. Hình ảnh những người nông dân, công nhân với vũ khí thô sơ như gậy gộc, búa, cuốc, xẻng trong hướng tiến lên choán phần lớn bề mặt tranh, trong khi đó, đoàn lính cầm súng ở phía đối lập chiếm một diện tích rất nhỏ. Người xem tranh như cảm thấy được sự sôi động, tiếng trống thúc giục rộn rã, sự quyết tâm đoàn kết của những người dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp. Như vậy, chỉ bằng các yếu tố tạo hình của hội họa là hình, màu sắc và bố cục, nhóm tác giả đã biểu hiện được tinh thần và sự kiện của phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh.
Có lẽ, tranh sơn mài Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ (1956) của Nguyễn Sáng là một trong những tranh xuất sắc cả về giá nghệ thuật và sự biểu đạt nội dung tư tưởng. Tác phẩm là tiếng nói hào hùng, đậm chất sử thi bằng ngôn ngữ của hình khối, màu sắc, đường nét về trận thắng quân sự lớn nhất trong kháng chiến chống Pháp 1945-1954 của quân và dân Việt Nam. Dựa trên những tư liệu, ký họa về sự kiện lịch sử trọng đại và những trải nghiệm về cuộc kháng chiến của dân tộc, danh họa Nguyễn Sáng đã xây dựng bức tranh sơn mài về thời khắc hào hùng của những người chiến sĩ Điên Biên: lễ kết nạp Đảng trong chiến hào. Chất hùng tráng được gợi nên từ những hình thể chắc khỏe, góc cạnh, cô đọng và súc tích đến từng chi tiết nhỏ nhất. Lòng quả cảm, tinh thần quyết tâm, ý chí chiến đấu toát lên từ dáng đứng, khuôn mặt và động tác của các nhân vật. Qua đó, nêu bật sự thiêng liêng của lễ kết nạp Đảng, sự hy sinh quên mình của những người chiến sĩ cho lý tưởng độc lập, tự do của dân tộc.
Việc tích lũy về vốn sống, ghi chép ký họa về các nhân vật, sự kiện, và những nghiên cứu công phu về tạo hình và chất liệu là nền tảng cho sự ra đời những tác phẩm hội họa hoành tráng về một giai đoạn lịch sử của dân tộc. Sở dĩ, Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ hay Xô viết Nghệ Tĩnh được xem như những dấu mốc quan trọng trong hội họa hiện đại Việt Nam về thể loại này là do cả hai tác phẩm không phải là sự kể tả, ghi chép các chi tiết hay sự kiện lịch sử mà là sự nghiên cứu, sáng tạo của nghệ sĩ để bày tỏ một thái độ, đồng thời dựng lên các nhân vật và sự kiện lịch sử một cách sống động, nhân văn.
Sự phản ánh lịch sử trong hội họa hiện đại Việt Nam
Ngoài những sáng tác về đề tài lịch sử, cũng cần kể đến những sáng tác hội họa không thuộc về đề tài lịch sử song lại có yếu tố sử do phản ánh chân thực nhân vật và sự kiện của một giai đoạn. Nếu trong thời kỳ mỹ thuật Đông Dương, sáng tác hội họa chủ yếu tập trung miêu tả con người, phong cảnh, sinh hoạt và người nghệ sĩ khi ấy đang say sưa với cái đẹp, với việc khám phá chất liệu, kỹ thuật xử lý các chất liệu tạo hình thì bước sang thời kỳ kháng chiến chống Pháp, người nghệ sĩ đã ý thức về tinh thần độc lập dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, dẫn đến sự xuất hiện một số sáng tác hội họa về những nhân vật, cảnh tượng, sự kiện mà theo họ là quan trọng trong thời điểm lịch sử đó. Chẳng hạn, trong triển lãm mỹ thuật toàn quốc lần thứ nhất (năm 1949), có những tác phẩm thể hiện chân thực về con người, cuộc sống Việt Nam trong khí thế đấu tranh chống Pháp và ủng hộ cách mạng, hoặc vẽ về những chiến sĩ tự vệ Hà Nội đội mũ calô, vai mang súng, những phố phường đỏ rực cờ Việt Nam, hay những lớp bình dân học vụ… Đó không phải là tranh về đề tài lịch sử, song ngày nay, chúng có thể như một nguồn tham khảo về hình ảnh thực tế trong một giai đoạn lịch sử ấy. Như trường hợp bức bột màu Bộ đội Nam tiến (1947) của Nguyễn Đỗ Cung cho chúng ta những tư liệu hình ảnh về trang phục như mũ calô, bao đạn… Hay tác phẩm Bác Hồ làm việc tại Bắc Bộ Phủ (1946) của Tô Ngọc Vân, vẽ Hồ Chí Minh trong trang phục giản dị, dáng vẻ nghiêm trang, khoan thai mà đĩnh đạc. Để xây dựng được tác phẩm này, Tô Ngọc Vân đã ký họa nghiên cứu dáng ngồi, tư thế của Người khi đang làm việc. Bức tranh sơn dầu tôn trọng sự chân thực các chi tiết trong ghi chép ký họa về Người nhưng được đặc tả kỹ, sâu. So sánh bản ký họa với tác phẩm sơn dầu sẽ thấy các chi tiết đồ vật như cuốn sách đang mở, chiếc ghế, bàn làm việc, chi tiết trang phục cho đến tư thế của Bác đang chăm chú tập trung làm việc sẽ thấy hầu như không có sự khác biệt. Chính những chi tiết này đã làm cho tác phẩm không chỉ có giá trị về mặt nghệ thuật tạo hình mà còn cả về mặt lịch sử, trở thành tư liệu quý về Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ của dân tộc. Nếu hiểu lịch sử là những gì thuộc về quá khứ thì việc phản ánh lại nhân vật, sự kiện đương thời dường như không thuộc lĩnh vực lịch sử. Thế nhưng, chính những tác phẩm này lại mang giá trị sử liệu quý báu về nhân vật, sự kiện để các thế hệ sau có thể tra cứu, tham khảo.
Tương tự, các bức ký họa sinh động, chân thực về bộ đội, du kích, nông dân là những tư liệu lịch sử quý bằng hình ảnh về giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc, chẳng hạn như Hai chiến sĩ, Đi học đêm (1954) của Tô Ngọc Vân, Du kích tập bắn (1947) của Nguyễn Đỗ Cung, Nhà thờ bị ném bom (1954) của Huỳnh Văn Thuận… Không chỉ các ký họa, mà nhiều tác phẩm hội họa trong giai đoạn này, như Bộ đội thổi sáo dưới nhà sàn, Tiểu đội pháo (sơn mài, 1949) của Nguyễn Tư Nghiêm, Bắc Ninh – Bắc Giang tiêu thổ kháng chiến (1948), Đóng thuế nông nghiệp (1951) của Tạ Thúc Bình (5),… do đặc điểm sáng tác nghệ thuật là hiện thực đồng thời gắn bó với thực tiễn lịch sử dân tộc nên có giá trị về lịch sử và yếu tố sử.
Vai trò của nghệ sĩ trong việc biểu hiện giá trị nhân văn về lịch sử
Nghệ thuật không làm việc chép sử như ghi chép, thống kê, tổng hợp các chi tiết và tư liệu. Song, nghệ thuật, với ưu thế của mình, lại có thể góp phần làm hiện lên chân lý, nhân cách của nhân vật và sự kiện lịch sử bằng ngôn ngữ đặc trưng của mỗi loại hình. Ở đây, cũng cần phải khẳng định rằng, sự hư cấu hay sáng tạo trong hội họa cần được dựa trên sự thật khách quan về nhân vật và sự kiện. Chẳng hạn, tác phẩm Guernica của danh họa Picasso vẽ về vụ đánh bom của Đức và Italia ở Guernica, một ngôi làng miền Bắc Tây Ban Nha. Các hình ảnh trong tranh là sự sáng tạo riêng của Picasso song lại thể hiện hết sức chân thực bi kịch của chiến tranh và sự đau khổ tột cùng do chiến tranh gây ra đối với những người dân vô tội. Tác phẩm đã trở thành một trong những biểu tượng chống chiến tranh mạnh mẽ, thuyết phục nhất.
Vẽ một bức tranh đã khó, song vẽ được một tác phẩm mang tầm tư tưởng, nội dung sâu sắc về lịch sử lại càng khó hơn bởi những yêu cầu về nghiên cứu nhân vật, sự kiện và các khía cạnh liên quan. Nếu chỉ đơn thuần là minh họa lịch sử thì sẽ làm giảm đi giá trị của hội họa, song hư cấu mà làm sai lệch đi tinh thần lịch sử lại có tội với lịch sử. Cái lớn lao và giá trị của những tranh vẽ về đề tài lịch sử không ở việc thể hiện chi tiết tỉ mỉ mà ở cách nhìn của nghệ sĩ về đề tài, sự kiện và nhân vật. Tác phẩm Sự thất thủ thành Breda của Velasquez miêu tả sự cao thượng, lòng hào hiệp của người thắng trận, sự nguôi ngoai nhiệt huyết sau cuộc chiến. Trong khi đó, những tranh khắc của Goya lại phô bày sự tàn bạo của chiến tranh khi biểu hiện một loạt hình ảnh xác người bị hành quyết, những người dân vô tội Tây Ban Nha bất lực trước sự tàn bạo, ghê rợn của kẻ thù.
Trong lịch sử phát triển của hội họa hiện đại Việt Nam, sáng tác về đề tài lịch sử chưa phải là thế mạnh. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có nhiều những tác phẩm biểu hiện được lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc. Thời kỳ chống Pháp và Mỹ, phần lớn các sáng tác mới là sự phản ánh hiện thực về một giai đoạn, hồi ức về chiến tranh, vẽ lại cảnh hành quân, chiến trường, trận địa… chứ chưa nhiều tác phẩm có đề tài nội dung sâu sắc và thành công về biểu hiện chân lý và nhân cách lịch sử. Suy cho cùng, vai trò của người họa sĩ trong sáng tác về đề tài lịch sử là phải sử dụng ngôn ngữ hội họa một cách sáng tạo, mang đậm tính nghệ thuật đồng thời thể hiện rõ được tư tưởng và thái độ nghệ sĩ của mình, qua đó làm sáng lên giá trị nhân văn nền tảng, đánh thức những xúc cảm thẩm mỹ của con người.
________________
1. Paul Barlow, The Death of History Painting in Ninetenth Century Art?, Visual Culture in Britain, Volume 6, Number 1-2005.
2. Andre Felibien (1619-1695), nhà phê bình nghệ thuật người Pháp. Ông xuất bản hai cuốn sách quan trọng về hội họa là Đàm luận về các họa sĩ xuất sắc nhất cổ kim và ý niệm về hội họa. Trong Ý niệm về hội họa, Andre Felibien đã tóm tắt các nguyên lý cơ bản về hội họa của Viện Hàn lâm nghệ thuật Pháp. Xem Jacques Charpier & Pierre Séghers, Nghệ thuật hội họa, Lê Thanh Lộc dịch, Nxb Trẻ, 1996, tr.187-197.
3. Đặng Bích Ngân (chủ biên), Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr.140-141.
4. David Green, Peter Sedom (chủ biên), Historical Painting Reassessed: The Representation of History in Contemporary Art, Manchester University Press, 2001.
5. Do hoàn cảnh thời chiến khó khăn, thiếu thốn về vật liệu đồng thời cần phải sáng tác nhanh để thực hiện nhiệm vụ cách mạng nên trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, các họa sĩ chủ yếu sử dụng các chất liệu dễ kiếm, rẻ tiền như bột màu, màu nước, chì, than, bút sắt.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 346, tháng 4-2013
Tác giả : Bùi Thị Thanh Mai
Bài viết cùng chủ đề:
Thiết kế bao bì trong xây dựng thương hiệu
Tượng chân dung trong quần thể lăng mộ thời lê – trịnh ở bắc bộ
Nghệ thuật trang trí và kiến trúc tại quần thể di tích thờ mẫu ở phủ dày