Toàn cầu hóa (TCH) đã và đang là xu thế lớn, tác động sâu rộng tới mọi lĩnh vực đời sống xã hội của các quốc gia, dân tộc. TCH hiện nay có bản chất chủ yếu là TCH kinh tế, là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động, phụ thuộc lẫn nhau trên tất cả các mặt của đời sống xã hội với tất cả các quốc gia, các dân tộc và việc giải quyết các vấn đề nảy sinh không thể không liên quan đến TCH về kinh tế. Những năm vừa qua, với đường lối đúng đắn, Việt Nam đã tham gia tích cực, chủ động vào quá trình TCH, vừa góp phần nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện để phát triển đất nước.
Tuy nhiên, TCH càng phát triển, thương mại càng tự do thì sức ép cạnh tranh ngày càng cao đối với mỗi nền kinh tế, mỗi doanh nghiệp, thậm chí mỗi cá nhân. Nhân công giá rẻ đã từng là lợi thế của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, để thu hút vốn đầu tư nước ngoài và xuất khẩu lao động. Nhưng ngày nay, lợi thế này đang dần mất đi ý nghĩa. Trong bối cảnh khả năng tiếp cận đối với các thiết bị, máy móc, công nghệ hiện đại của các doanh nghiệp là gần như nhau, thì yếu tố tạo nên sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp, mỗi nền kinh tế chủ yếu nằm ở yếu tố quản lý và đặc biệt, chất lượng nguồn nhân lực. Bởi vậy, việc không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nguồn nhân lực đang trở thành cuộc chạy đua giữa các doanh nghiệp, các nền kinh tế. Văn kiện đại hội XI đã khẳng định: “TCH về kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen rất phức tạp… Sự tùy thuộc lẫn nhau, hội nhập cạnh tranh và hợp tác giữa các nước ngày càng phổ biến. Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó con người và tri thức ngày càng trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia”(1). Như vậy TCH vừa là điều kiện thuận lợi, vừa là thách thức lớn đối với Việt Nam trong việc phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay.
TCH là cơ hội cho sự phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam
Trước hết, TCH tạo cơ hội cho nguồn nhân lực của Việt Nam tham gia sâu, rộng hơn vào sự phân công, hợp tác lao động quốc tế và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. TCH và hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra điều kiện thu hút mạnh các dự án có vốn đầu tư của nước ngoài ngày càng nhiều vào Việt Nam, kéo theo đó là nguồn vốn công nghệ và nhân lực trình độ cao của nước ngoài. Thống kê cho thấy, trong các năm qua, lao động là người nước ngoài vào làm việc ở Việt Nam phần lớn là lao động có chuyên môn kỹ thuật cao, hoạt động trong các doanh nghiệp có vốn FDI, các dự án công ty nước ngoài trúng thầu và đại diện của các công ty nước ngoài hoạt động trong các lĩnh vực chủ yếu như: dầu khí, khách sạn, xây dựng, giao thông, điện lực, lắp ráp và chế tạo các sản phẩm ô tô, xe máy, công nghệ thông tin điện tử, da giày, may mặc, ngân hàng, y tế, bảo hiểm, giáo dục đào tạo. Việc di chuyển của lao động người nước ngoài vào làm việc tại nước ta một mặt làm tăng hiệu quả chuyển giao công nghệ ngoại nhập, đảm bảo chất lượng các công trình kinh tế mặt khác góp phần nâng cao năng lực thực tế nguồn nhân lực của Việt Nam, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao làm việc trong khu vực này.
Bên cạnh đó, chúng ta đã và đang áp và đang áp dụng những hình thức đào tạo hợp tác quốc tế về lao động như hợp tác đào tạo song phương và đa phương giữa các chính phủ; hợp tác với sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế (UNDP, UNICEF, UNIDO, WHO, ILO); sự hỗ trợ đào tạo của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức xã hội và từ thiện quốc tế; hợp tác song phương về đào tạo giữa các tổ chức khoa học Việt Nam với các đối tác nước ngoài; tự túc đào tạo ở nước ngoài với nguồn kinh phí cá nhân, người đi học được bảo hộ quyền công dân, được hỗ trợ thủ tục hành chính hay hình thức liên kết đào tạo giữa các cơ sở đào tạo của Việt Nam với các trường đại học, học viện có uy tín của nhiều quốc gia phát triển trong khu vực và trên thế giới. Quá trình hợp tác quốc tế về lao động đã tạo ra cơ hội gia tăng các giá trị cho cho các doanh nghiệp và bản thân người lao động, đó là kỹ năng chuyên môn, phương pháp làm việc hiện đại, các chuẩn mực, mô hình, hệ thống quản lý hiện đại được áp dụng cho các khu liên hợp sản xuất, các công nghệ mới trong sản xuất sản phẩm chất lượng cao.
TCH còn kích thích sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ đòi hỏi các ngành, các lĩnh vực phải không ngừng phát triển nguồn nhân lực để tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế nếu không muốn bị tụt hậu. Dưới tác động của xu thế TCH kinh tế, chính phủ cũng như bản thân các doanh nghiệp rất chú trọng đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động để đáp ứng yêu cầu làm chủ việc đổi mới, nâng cấp công nghệ. Với các chính sách mới của Đảng và nhà nước, các doanh nghiệp đã coi chất lượng nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng bậc nhất để năng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh, từ đó đã đầu tư nhiều hơn cho việc nâng cao trình độ của người lao động. Các nghiên cứu cũng cho thấy các doanh nghiệp FDI chi phí cho đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn kỹ thuật cho người lao động rất lớn. Thí dụ, tại các công ty ở Bình Dương, để gửi lao động đi đào tạo ở nước ngoài bình quân chi ra 3000 USD/người, đào tạo trong nước 1500 USD/người; Công ty VIDAMCO là liên doanh giữa công ty Daewoo (Hàn Quốc) và một công ty ô tô của Bộ Quốc phòng đi vào hoạt động từ 1995 đến nay đã gửi 25% số kỹ sư và cán bộ đi đào ở Hàn Quốc và hơn 35% số công nhân được thực tập sử dụng công nghệ của các chi nhánh công ty ô tô tại Inđônêxia và Ấn Độ.
Trong xu thế này, cơ cấu lao động theo trình độ được đào tạo ở nước ta hiện nay đã có sự thay đổi đáng kể. Tỷ lệ lao động có trình độ đại học tăng rõ rệt, từ 11,1% năm 2007 lên 17,9% năm 2012, trên đại học tăng từ 0,57% lên 4,1%. Điều này thể hiện rõ nhất trong khu vực hành chính, sự nghiệp: tỷ lệ lao động có trình độ đại học là 61%, trên đại học là 22,8% (tăng nhiều so với 31% và 2,5% năm 2007), phần lớn tập trung ở các ngành hoạt động chuyên môn và khoa học công nghệ, dịch vụ hành chính và hỗ trợ, hoạt động đảng, tổ chức chính trị xã hội, giáo dục đào tạo, nghệ thuật vui chơi giải trí. Đối với khu vực doanh nghiệp là các ngành: thông tin truyền thông, hoạt động tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, hoạt động kinh doanh bất động sản, hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ.
Bên cạnh việc đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng của các doanh nghiệp thì bối cảnh TCH cũng tạo điều kiện cho người lao động dễ dàng tiếp nhận được kho thông tin, tri thức mới rất phong phú về nhiều lĩnh vực, từ đó tự đào tạo, nâng cao năng lực chuyên môn, cũng như tác phong làm việc công nghiệp, từng bước đáp ứng với yêu cầu mới của công việc. Đây là một trong những điều kiện và động lực quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay.
TCH còn tạo thêm nguồn lực vật chất cho phát triển nguồn nhân lực thông qua các dự án hợp tác đầu tư của các nước phát triển vào Việt Nam, đã và sẽ tạo ra các nguồn tài chính dồi dào hơn cho việc đổi mới công nghệ và thiết bị, đặc biệt là những ngành kinh tế cần vốn lớn và công nghệ hiện đại. Đồng thời quá trình TCH còn tạo cơ hội thúc đẩy việc tái cơ cấu lao động theo định hướng thị trường, tăng cường những lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, trong khi những lao động không có chuyên môn kỹ thuật phải được cắt giảm. Các cơ chế về tiền lương và thu nhập cũng được điều chỉnh theo cơ chế thị trường, bảo đảm trả công xứng đáng với những đóng góp của người lao động và tạo động lực cho việc tự đào tạo của người lao động góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả.
Những thách thức đối với việc phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam trong bối cảnh TCH
Quá trình TCH và hội nhập kinh tế quốc tế ngoài việc đem lại cơ hội lớn thì cũng đưa đến những thách thức không nhỏ đối với việc phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay. Trước hết là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt cả về số cũng như chất lượng của nguồn nhân lực. Trong điều kiện mở rộng thương mại quốc tế, các dự án lớn liên tục được nghiên cứu, khảo sát và triển khai với tốc độ nhanh thì Việt Nam lại đang khan hiếm về số nhân sự cấp cao để điều hành các doanh nghiệp, tập đoàn. Đây là một bài toán khó vì nhân lực cấp cao cần có chiến lược đầu tư bài bản và thời gian khá dài để chuẩn bị. Ví dụ, Công ty Intel thực hiện kiểm tra đánh giá tiêu chuẩn đối với 2.000 sinh viên công nghệ thông tin Việt Nam thì chỉ có 90 ứng viên, tương đương 5%, vượt qua được kỳ kiểm tra và trong nhóm này chỉ có 40 ứng viên đáp ứng đủ trình độ tiếng Anh. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước đều cho rằng tình trạng thiếu hụt lao động và quản lý có kỹ năng, đặc biệt là cấp cao và trung, vẫn là một rào cản lớn đối với việc mở rộng đầu tư, sản xuất tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực của Việt Nam còn phải cạnh tranh trực tiếp với đội ngũ cán bộ, kỹ sư, công nhân có trình độ cao được tiếp xúc với công nghệ tiên tiến, hiện đại trên thế giới đến từ các nước khác. Trong khi đó, sức cạnh tranh thấp của nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn là một điểm nghẽn cho sự phát triển của đất nước trong bối cảnh hiện nay. Điều đó thể hiện ở năng suất lao động năm 2009 của Việt Nam chỉ tương đương 14,9% của Singapore, 9% của Mỹ, 40% của Thái Lan và 52,6% của Trung Quốc (2).
Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2012-2013 vừa được Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) công bố, xếp Việt Nam ở vị trí thứ 75 trên tổng số 144 quốc gia và vùng lãnh thổ được khảo sát. Thấp hơn 10 bậc so với bảng xếp hạng năm 2011, Việt Nam đã đứng áp chót về năng lực cạnh tranh trong số 8 quốc gia ASEAN được lựa chọn khảo sát. Còn theo Tổng cục Thống kê, đến cuối năm 2012, các chỉ số cho thấy ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành cần đội ngũ lao động có trình độ cao thì chỉ có 9,7% số lao động có trình độ từ đại học trở lên và có tới 72,2% số lao động chưa qua đào tạo hoặc đã qua đào tạo nhưng không được cấp chứng chỉ. Trong các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể, tỷ lệ lao động chưa được đào tạo còn khá cao, chiếm 67,2% tổng số lao động của khu vực này và chiếm 61% tổng số lao động chưa được đào tạo của tổng thể các đơn vị kinh tế, hành chính sự nghiệp (3).
Thực trạng đó dẫn đến một nghịch lý là trong khi chúng ta dư thừa nguồn cung trên thị trường lao động thì vẫn thiếu cục bộ nguồn nhân lực là người Việt Nam trong một số ngành nghề đang có nhu cầu cao tại các khu chế xuất, khu công nghiệp và đặc biệt là đối với thị trường lao động có trình độ cao. Điều này đặt ra thách thức lớn cho việc phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam, đòi hỏi quá trình đào tạo phải tiếp tục được đổi mới, thường xuyên cập nhật cả về cách thức, nội dung, phương pháp để đáp ứng với sự thay đổi nhanh chóng của tình hình hiện nay.
Trong bối cảnh sản xuất hiện nay, các yêu cầu khác về chất lượng nguồn nhân lực đang được đặt ra rất cao, trở thành những thách thức đối với nguồn nhân lực của nước ta: Đó là yêu cầu cao về ngoại ngữ, tin học, tác phong làm việc công nghiệp và văn hóa ứng xử, hiểu biết về luật pháp và thông lệ quốc tế. Thực tế hiện nay, một bộ phận nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam đã và đang trực tiếp làm việc trong các công ty đa quốc gia, kéo theo đó là một môi trường đa văn hóa, đa tín ngưỡng, tôn giáo… Do đặc thù về lịch sử, văn hóa và điểm yếu về ngoại ngữ, mà sự khác biệt về văn hóa, lối sống, quan niệm, tín ngưỡng thường tạo ra những khó khăn cho lao động Việt Nam trong việc hòa nhập và thể hiện hết năng lực chuyên môn của mình. Ngoài ra nguồn nhân lực của Việt Nam còn thể hiện sức cạnh tranh chưa cao ở tinh thần chấp hành kỷ luật lao động chưa tốt, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, ứng xử trong công việc chưa phù hợp với tác phong làm việc công nghiệp.
Hơn nữa, trong điều kiện kinh doanh với quy mô lớn, tính phức tạp và tổng hợp của công việc ngày càng nhiều, đòi hỏi nguồn nhân lực không những chỉ giỏi chuyên môn của mình mà còn phải có những phẩm chất mới đặc biệt là khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi của công nghệ, thị trường, của công việc. Vì một trong những động lực quan trọng nhất của TCH là tốc độ hiện đại của những tiến bộ kỹ thuật, điều đó làm cho những kiến thức mà nguồn nhân lực được trang bị ở các trường dù có hiện đại đến đâu đi nữa thì chỉ trong vài năm cũng sẽ thành ra lạc hậu. Cái mà nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao cần có là khả năng hấp thu kiến thức mới, kỹ năng mới một cách nhanh chóng và ít tốn kém, cũng như những kỹ năng mềm trong hợp tác, làm việc trong nhóm và khả năng làm việc độc lập, những thứ khiến họ có giá trị đối với nhà tuyển dụng. Đây là các phẩm chất rất quan trọng trong môi trường làm việc quốc tế nhưng nhìn chung lại là điểm yếu căn bản của nguồn nhân lực Việt Nam. Như vậy, sức cạnh tranh chưa cao của nguồn nhân lực Việt Nam đã và sẽ tiếp tục là thách thức lớn đối với nước ta trong quá trình TCH và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Do đó, Đảng ta đã xác định một trong ba khâu đột phá chiến lược lược để phát triển đất nước là: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”(4).
Dưới tác động của TCH kinh tế và sự phát triển của thị trường lao động thì hiện tượng di chuyển lao động từ khu vực nhà nước tới các doanh nghiệp FDI, văn phòng đại diện nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân là hiện tượng đang diễn ra khá phổ biến. Phần lớn số lao động này là những người có năng lực chuyên môn kỹ thuật cao, độ tuổi sung sức và khả năng ngoại ngữ tốt. Trong đó, tiền lương, thu nhập cao hơn, môi trường làm việc tốt hơn là nhân tố quyết định sự di chuyển của người lao động. Dòng di chuyển lao động này đã đem lại lợi ích lớn cho các khu vực này ngược lại sự thiệt hại thuộc về các doanh nghiệp nhà nước và cơ quan nhà nước. Đây là một vấn đề lớn cần được các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu để đảm bảo sự phát triển đúng định hướng của nền kinh tế nước ta hiện nay.
TCH giáo dục và đào tạo cũng là một thách thức lớn đối với phát triển nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay. TCH một mặt tạo điều kiện cho những người có nhu cầu học tập có nhiều sự lựa chọn để nâng cao trình độ của mình: học ở nước ngoài hay học tại Việt Nam với chương trình liên kết đào tạo…; mặt khác, nó đưa đến những quan ngại là thực trạng các trường đại học cạnh tranh với nhau về nhiều mặt, đặc biệt là về sinh viên. Việc cạnh tranh này đang gia tăng vì phương thức cấp phát tài chính cho các trường đang thay đổi theo phương thức dựa trên số sinh viên tuyển vào hàng năm mà chưa được kiểm soát nghiêm khắc chất lượng đầu vào như tuyên bố của các chủ trương chính sách.
Hơn nữa, sự cạnh tranh sẽ ngày thêm quyết liệt giữa các trường trong nước và các trường nước ngoài đối với những học sinh, sinh viên Việt Nam muốn được chương trình tiên tiến. Trong thực tế, các trường nước ngoài chiêu mộ sinh viên Việt Nam một cách mạnh mẽ và ngày càng nhiều sinh viên Việt Nam ra nước ngoài để học tập. Theo thỏa thuận WTO, trong một thời gian rất ngắn nữa, các trường nước ngoài sẽ được đối xử ngang bằng với các trường Việt Nam về quy chế thành lập, tuyển sinh và quy định tiêu chuẩn chất lượng; có thể thâm nhập vào thị trường giáo dục Việt Nam một cách trực tiếp hoặc thông qua liên kết. Đã có khá nhiều chương trình đào tạo liên kết phối hợp với trường đại học Việt Nam và cấp bằng tiếng Anh. Nhưng thách thức đặt ra là vấn đề kiểm soát như thế nào chất lượng của các chương trình này, để nó thực sự nâng cao chất lượng của các trường trong nước, nhất là khi đối tác nước ngoài không phải là một trường hàng đầu trên thị trường giáo dục ở chính bản địa và thường gắn với một dự án liên kết ở Việt Nam như một phương tiện gia tăng số lượng tuyển sinh và nâng cao thu nhập. Do đó, đòi hỏi phải có một hệ thống đánh giá và kiểm soát chất lượng tương đối độc lập của Việt Nam thực hiện, bởi vì cả đối tác Việt Nam và nước ngoài đều muốn tuyển nhiều sinh viên hơn nữa thay vì phải bảo đảm chất lượng.
Quá trình TCH và hội nhập quốc tế còn tạo sức ép lớn cho các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu còn có quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ ở mức trung bình và lạc hậu, sức cạnh tranh thấp. Do đó các doanh nghiệp chỉ có thể dành nguồn vốn hạn chế cho việc đào tạo nâng cao trình độ, chuyên môn kỹ thuật cho nguồn nhân lực hiện có. Bên cạnh đó là môi trường làm việc và cơ chế tiền lương cũng chưa thực sự tạo được động lực thúc đẩy sự phát triển về chất lượng nguồn nhân lực của chính nội bộ nền kinh tế, cũng như thu hút nhân lực trình độ cao vào làm việc.
Những thách thức, cơ hội nêu trên có mốỉ quan hệ, tác động qua lại, có thể chuyển hóa lẫn nhau. Cơ hội không tự phát huy tác dụng mà tùy thuộc vào khả năng nhận thức và vận dụng của chúng ta, tận dụng cơ hội tốt sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua thách thức, tạo ra cơ hội lớn hơn. Ngược lại, nếu không nắm bắt, tận dụng cơ hội thì không những bị bỏ lỡ mà thách thức sẽ tăng lên lấn át cơ hội. Những điều kiện trên đây đòi hỏi những nhà quản lý, hoạch định chính sách, các nhà khoa học, chuyên gia phải tiếp tục nghiên cứu để có cái nhìn toàn diện, khách quan về bối cảnh hiện nay, từ đó bổ sung, điều chỉnh chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam cho phù hợp nhằm tận dụng thời cơ, vươn lên nhanh trước sức ép để không những vượt qua thách thức mà còn có thể biến thách thức thành động lực phát triển đất nước trong tương lai.
_______________
1, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.97, 106.
2. Michel. E. Porter, The 2010 Viet Nam Competitiveness Report, 2010.
3. Tổng cục Thống kê, Kết quả chính thức tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm 2012.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 350, tháng 8-2013
Tác giả : Đặng Trường Minh
Bài viết cùng chủ đề:
Định hướng giá trị yêu nước cho thế hệ trẻ hiện nay
Hồ chí minh – người khai sinh danh nhân văn hóa thời hiện đại
Ngoại giao văn hóa trong chính sách phát triển của việt nam